QĐND Online - “Vào thời điểm này năm ngoái, ô tô, xe máy vào làng tấp nập lấy hàng vui như Tết. Đêm đến, cả làng sôi động bởi tiếng cưa, mài, đục, dập... nhưng nay hàng bán chậm lắm, các hộ đều phải sản xuất cầm chừng. Nghề gia truyền không bỏ được, hơn nữa miệng ăn của cả nhà đều phải trông vào cái nghề rèn dập kim khí này”… một người dân làng nghề nói

Khó chồng lên khó

Trận lụt lịch sử cuối tháng 10-2008 vẫn còn hằn nét trong nhà xưởng của anh Nguyễn Văn Tuấn-Giám đốc Công ty TNHH Chiến Thắng (xã Thanh Thùy). Chỉ tay vào ngấn nước còn in trên tường xưởng cách nền chừng nửa mét, anh buồn rầu: “Máy móc ngập, hàng hóa ngập. Mà hàng kim loại đã ngập với thời gian lâu như vậy chỉ có thành sắt vụn. Hôm qua nhà tôi đã thanh lý hơn 10 tấn hàng hỏng. Đã khó lại càng khó”. Nhưng không chỉ riêng gia đình anh, ở cái thôn Rùa Thượng này, có tới 80 hộ bị ngập, 25 hộ phải di dời, thiệt hại toàn thôn lên tới gần 2 tỉ đồng.

Xã Thanh Thùy vốn có nghề truyền thống là điêu khắc và kim khí. Xã có 6 thôn (Rùa Hạ, Rùa Thượng, Từ Am, Gia Vĩnh, Dụ Tiền, Dư Dụ) thì có đến 5 thôn làm nghề kim khí. Thôn có nhiều hộ sinh nhai bằng nghề kim khí nhiều hơn cả là Rùa Thượng và Rùa Hạ. Chẳng ai biết nghề này chính xác có từ bao giờ, chỉ biết rằng đời ông, đời cha họ đã sống bằng nghề đục, dập. Ban đầu, sản phẩm của nghề kim khí chỉ là những chiếc đinh thuyền, xích thuyền, móng ngựa. Do sự phát triển nhanh chóng của thị trường, dân làng lại tìm tòi, học hỏi để cho ra đời những mặt hàng “công nghệ” cao hơn như cửa xếp, phụ tùng xe đạp, xe máy, ô tô. “Tất cả những gì liên quan đến “đột, dập” kim khí, làng nghề này đều có thể làm ra được!”- ông Lý Duy Bình, Phó chủ tịch UBND xã Thanh Thùy khẳng định.

Đường vào làng nghề
Cũng từ cuối năm 2007 đến nay, còn một trận lụt nữa âm thầm tràn vào làng nghề này mà sức công phá của nó còn lớn hơn cả trận lụt hồi tháng 10 vừa rồi, đó là những tác động bất lợi của thị trường.

Ai cũng biết, lợi thế cạnh tranh của các mặt hàng giờ đây là giá thành rẻ. Thế nhưng ngày nay mức sống cao hơn, người tiêu dùng cũng không còn "ham" hàng rẻ như xưa nữa. Đúng lúc ấy thì cái yếu của sản phẩm làng nghề ngày một bộc lộ. Đấy là chất lượng thấp, mẫu mã kém hấp dẫn so với hàng hoá được sản xuất bằng công nghệ hiện đại. Theo anh Tuấn, loại chân chống xe máy do công ty anh sản xuất đang bị "lép vế" so với hàng của công ty Long An (Phố Nối-Hưng Yên) hay công ty Cổ phần xe máy, xe đạp Thái Bình (Hà Nội).

Trước đây, khi những chiếc xe máy Trung Quốc bắt đầu nhập vào Việt Nam, rồi nhu cầu xe ba bánh, xe tự chế của người dân ngày càng lớn, thì cũng là lúc người dân ở đây có thêm nghề mới: sản xuất linh kiện, phụ tùng xe ba bánh, xe tự chế. Có những xưởng lớn đã có thể sản xuất được trên 10 loại linh kiện, phụ tùng xe tự chế khác nhau. Cũng nhờ mặt hàng này mà ở Thanh Thùy có đến hàng chục ông chủ tỉ phú ở tuổi ngoài 30.

Tuy nhiên, đến nay, nhiều cơ sở sản xuất lớn khác trong xã cũng đang phải cạnh tranh gay gắt với các nhà sản xuất của Trung Quốc, nhất là ở các mặt hàng linh kiện xe tự chế. Thêm nữa, theo Nghị quyết 32 của Chính phủ, xe tự chế không được lưu hành tại các thành phố kể từ ngày 1/1/2008, nên hiện nay chỉ còn số ít hộ sản xuất mặt hàng này chủ yếu cung cấp cho người đi xe tự chế ở các tỉnh lẻ, song số lượng cũng rất hạn chế. Nhiều gia đình đã quay lại nghề làm cửa sắt, chốt cửa và bỏ hẳn nghề sản xuất phụ tùng xe máy bởi hàng làm ra ế và bán rất rẻ.

Không khí sản xuất tại gia đình ông Hoàng Văn Sâm, người xóm Thượng, thôn Rùa Hạ cũng bắt đầu trầm lắng. “Nếu các anh đến đây vào thời điểm này năm ngoái, ô tô, xe máy vào làng tôi tấp nập lấy hàng vui như Tết. Đêm đến, cả làng sôi động bởi tiếng cưa, mài, đục, dập…nhưng nay hàng chậm lắm, các hộ đều phải sản xuất cầm chừng”, ông nói. Trước kia, mỗi ngày nhà ông sản xuất khoảng 500 chiếc vỏ bễ điện, nay số lượng chỉ vỏn vẹn 300 chiếc. Dễ đến một tháng mới có 1 chuyến xe chở hàng về Hà Nội, Thanh Hoá chứ không còn đều đặn 5 ngày một chuyến như xưa nữa. Đợt lạm phát vừa rồi khiến cơ sở của ông nhiều phen khốn đốn. Hợp đồng đã ký, giá cả nguyên vật liệu lên vù vù, ông phải bấm bụng chịu thiệt vì không thể vi phạm. Hiện ông chỉ giữ lại 2 nhân công làm thuê chứ không phải 4 người như năm ngoái. “Chắc chắn là do cái anh suy thoái kinh tế ấy mà!”- ông Sâm thở dài lý giải.

Chuyện vốn và ô nhiễm…

Nếu anh Tuấn mong có vốn để mua sắm máy móc thì ông Sâm lại muốn được vay vốn để duy trì và mở rộng sản xuất. Nhưng hiện nay, hầu hết bà con chỉ được vay vốn ở Ngân hàng NN và PTNT. Mà mức vay cũng khiêm tốn nên chưa đáp ứng được nhu cầu. Khó hơn nữa là những hộ chưa có “sổ đỏ” hợp pháp, đây là những hộ giáp sông, giáp ruộng nên việc xác minh diện tích đất có khó khăn hơn. "Xã đang gắng hoàn tất việc cấp sổ đỏ nhanh nhất trong điều kiện có thể để bà con sớm được vay vốn. Chúng tôi cũng đang đề nghị nhà nước tăng mức cho vay cho bà con", ông Lý Duy Bình cho biết.

Tuy không muốn nói ra, song ai cũng biết, ô nhiễm môi trường ở Thanh Thuỳ ngày càng trở lên trầm trọng. Các lò xúc, rửa và lò mạ sử dụng hoá chất là nguyên nhân chính gây ra ô nhiễm. Do không có hệ thống xử lý, nên toàn bộ chất thải của các lò này đều thải trực tiếp ra môi trường. Hậu quả là đã có khá nhiều người bị bệnh ngoài da, bệnh hen, suyễn và sốt xuất huyết. Lúa trồng tại những cống xả thải cũng có hiện tượng biến gien. Chỉ đếm sơ sơ, riêng thôn Rùa Thượng đã có tới 5 lò mạ, đó là chưa kể đến gần chục lò xúc rửa.

Một cơ sở sản xuất tại làng nghề

Khi biết chúng tôi muốn “mục sở thị” tình trạng ô nhiễm của làng nghề, ông Bình dẫn chúng tôi đi một vòng quanh thôn Rùa Hạ. Cạnh những ao, hồ đen đặc vì ô nhiễm, phế liệu được chất ngổn ngang. Trong chiếc ao trước cổng nhà anh Lê Tiến Trung, từng mảng bèo tây bị “đổi mầu” vì sơn xanh bám trên mặt lá. Chỉ tay vào chiếc bể được xây qua quýt nằm ngay trước cổng nhà anh Trung, thành bể loang lổ màu sơn, ông Bình than thở: “Mỗi khi lò hoạt động, sơn và hóa chất cứ “vô tư” tràn từ lò xuống đường rồi trút tất xuống cái ao này”.

Trong chiếc sân rộng chưa đầy chục mét vuông của gia đình anh Trần Văn Mạch, hai chiếc lò mạ đang hoạt động, theo guồng quay của máy, mùi hóa chất bốc lên khê nồng nặc. Kế bên chiếc lò mạ, từng mảng tường bao đang bong tróc vữa, muối trắng lốp bám thành từng lớp trên tường. Trên mặt sân, những dòng hóa chất vẫn đang lách tách chảy xuống rãnh rồi ra đường ống thoát nước của thôn. Ngày qua ngày, hóa chất từ những chiếc lò như thế này cứ lặng lẽ trôi ra đồng ruộng, ra sông Nhuệ. Với cái đà này, chắc cũng chẳng còn bao lâu nữa, sông Nhuệ sẽ cùng chung số phận với con sông Thị Vải.

Vừa qua, một điểm công nghiệp của làng nghề với 3 lô đã được triển khai bên cạnh quốc lộ 71, cách trụ sở UBND xã chừng 2 cây số. Tại điểm công nghiệp này, ngoài khu nhà xưởng còn có khu vực cây xanh, khu xử lý chất thải. Lúc đầu, bà con còn chưa mặn mà lắm với việc chuyển ra khu vực này, phần vì phải chịu thuế đất, thuế sản xuất, phần vì tư tưởng ngại làm một nơi, ở một nơi. Song dần dà, họ cũng nhận ra nhiều cái lợi khi được sản xuất ở đây. Hiện, lô số 1 đã hoàn thành, 17 hộ đã đăng ký thuê đất, xây dựng nhà xưởng tại đây. Tuy nhiên, gọi là được ra sản xuất ở khu công nghiệp tập trung, song các cơ sở vẫn phải sản xuất trong tình trạng chưa có khu xử lý chất thải, bởi trong quy hoạch, khu xử lý chất thải được bố trí ở lô số 3.

Rời Thanh Thùy, trong tôi cứ cộm lên ý nghĩ, “xưởng làng” tồn tại đã bao năm nay, song nghề kim khí ở đây vẫn không có lấy một mặt hàng được gọi là mũi nhọn, có chất lượng cao. Chỉ với những sản phẩm như hiện nay, khi hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, và nhất là khi “bão” suy thoái đang đến gần, kim khí Thanh Thùy sẽ tồn tại ra sao? Nhìn những căn nhà cao tầng mọc dày san sát trong làng Rùa Thượng, Rùa Hạ đang lặng lẽ trầm mặc bên xưởng làng, bất giác, tôi xót xa khi nghĩ đến dòng sông Nhuệ đang oằn mình chống chọi phía ngoài kia, và cả cuộc sống của những người dân bên lưu vực con sông ấy sẽ đi về đâu…?

PHẠM HOÀNG HÀ