 |
Nhóm phân giới cắm mốc số 3 bám vách đá để vượt sông. |
Chứng kiến các tổ, nhóm Phân giới, cắm mốc (PGCM) ngày đêm cần mẫn, kiên trì hoàn thiện hệ thống cột mốc đường biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc giữa rừng sâu, núi thẳm, tôi hiểu nỗi gian truân, vất vả cũng như niềm tự hào của các anh, những người lặng lẽ, âm thầm đánh dấu chủ quyền của Tổ quốc...
Muốn về quê, phải xuất cảnh
Hôm gặp nhóm Trưởng nhóm PGCM số 6 và số 7 Tây, anh Triệu Quyết Long và Phó nhóm trưởng Trần Anh Tuấn trên đường biên thuộc huyện Mèo Vạc (Hà Giang), tôi được các anh kể cho nghe chuyện có lúc phải về thị xã Hà Giang bằng con đường… xuất ngoại. Đó là vào tháng 7-2004, cả nhóm 6 đang triển khai công việc ở khu vực xã Thượng Phùng - Xín Cái (huyện Mèo Vạc) thì trận mưa đá kéo dài 2 giờ đồng hồ khiến tuyến biên giới tắc đường cục bộ. Nhóm trưởng Triệu Quyết Long phải cơm nắm xuôi dốc “Đại tướng” và vượt dốc “Tắt thở” xuống huyện Mèo Vạc họp vào ngày hôm sau. 21 thành viên còn lại thì làm thủ tục xuất cảnh sang Trung Quốc qua cửa khẩu Săm Pun để rồi nhập cảnh qua cửa khẩu Tả Kha, thị trấn Phó Bảng (huyện Đồng Văn) và xuôi về thị xã. Dịp đó, tuyết rơi trên biên giới, không kịp cung cấp lương thực nên tổ hậu cần phải ghé vào vay của Đồn biên phòng Săm Pun.
Cứ tưởng vậy là dông cả năm, không ngờ nhóm PGCM lại được… “mừng tuổi" bằng 2 cô dâu mới. Sau lần lên thăm người yêu làm việc tại khu vực huyện Vị Xuyên, hai cô Ngoan và Hồng đã củng cố quyết tâm tổ chức đám cưới với 2 thành viên của nhóm là anh Triệu Tiến Sự và Trần Tuấn Anh.
Thiếu tá Trần Anh Tuấn, Phó trưởng nhóm PGCM số 7 Tây, kể về những ngày tháng tham gia PGCM đầy tự hào: Xã Sơn Vĩ, huyện Mèo Vạc tiếp giáp với hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây (Trung Quốc), phần biên giới tiếp giáp với tỉnh Vân Nam do nhóm 7 Tây phụ trách, phần tiếp giáp với tỉnh Quảng Tây do nhóm số 7 Đông (thuộc BĐBP tỉnh Cao Bằng phụ trách). Mỗi một cột mốc dựng lên là biết bao kỷ niệm khó quên về tình đồng đội, đồng nghiệp, tình quân dân… Đó là những ngày tháng, cứ buổi sáng ăn liền 4 bát cơm chan canh và thịt rang rồi nai nịt gọn gàng đi 4 giờ ra thực địa. Buổi trưa giở cơm nắm ăn cùng bánh bao của nhóm nước bạn. Xế chiều hành quân về, tối hội ý và sáng hôm sau lại tiếp tục vòng tuần hoàn của ngày hôm trước. Thế nhưng, kể cả khi phải làm việc trong cái nóng của núi đá mùa hè, cái lạnh buốt của cao nguyên đá mùa đông, tất cả vẫn hăng say không mệt mỏi…
5 năm trong rừng thẳm, tuyết dày
Gặp anh Hà Đình Kiến, Trưởng nhóm nhóm PGCM số 3, tôi nhận thấy những nếp nhăn, tóc bạc nhiều hơn so với lúc nhậm chức Trưởng nhóm. 5 năm anh làm Trưởng nhóm là 5 năm đằng đẵng trong rừng sâu, vất vả đủ bề. Phụ trách phân giới từ giới điểm số 6 (khu vực xã Nậm Xe, Phong Thổ, Lai Châu) tới giới điểm số 9 (khu vực xã Xín Mần, Xín Mần, Hà Giang) với tổng chiều dài 185km đường biên, nhưng ngày 31-12-2007, nhóm số 3 đã về đích đầu tiên trong 12 nhóm trên tuyến biên giới bộ Việt Nam – Trung Quốc. Theo quy định, mốc đặc cỡ đại nặng tới 960kg, mốc trung 500kg và mốc tiểu cũng nặng tới 350kg. Nói vậy để phần nào hiểu vất vả trong vận chuyển 10 tấn (3m3 sỏi, 3m3 cát, 1, 2 tấn xi măng, 500 lít nước, một tạ thép) nguyên vật liệu đủ xây dựng một cột mốc ở những nơi cheo leo, heo hút. Các anh như những chú ong thợ, cõng từng cân cát, xi măng, gạch, đá, chắt chiu, cẩn trọng từng cen-ti-mét, vì đó là công trình vĩnh cửu cho mãi mãi mai sau…
Trên hành trình PGCM, những điều “không lường trước” vẫn thường xuyên xảy ra. Khi cắm mốc 170 nằm trên Ngã 3 sông Xanh và sông Nậm Chảy, bao gồm mốc 170-1 cắm trên đất của huyện Mã Quan (Trung Quốc), mốc 170 - 2 cắm trên đất thuộc huyện Mường Khương và mốc 173 -3 cắm trên đất huyện Si Ma Cai (Lào Cai). Khu vực này, vách đá dựng đứng, phải buộc mốc vào mảng rồi dùng tời thả xuống kéo trên sông. Có lần, lưu tốc dòng chảy quá lớn đã đánh tan bè mảng, một chiến sĩ của Đồn biên phòng Tả Gia Khâu đã bị trôi theo dòng nước mất gần hai km mới bám được vào tảng đá, thoát chết trong gang tấc. Phó nhóm trưởng Nguyễn Xuân Trường thì chìa vết sẹo mổ chích nọc độc rắn xanh trên cánh tay mỗi khi muốn nhắc đến mốc 84 (thuộc địa phận xã Nậm Xe, tỉnh Lai Châu). Mốc này nằm trên đỉnh núi cao 2.995 mét, anh em thường xuyên bị chảy máu cam vì không khí loãng, áp suất thấp.
Từ rừng U Ma Tu Khoòng đến Nậm Xe
Còn nhớ một lần, sau 6 giờ lội suối, vượt dốc, chỉ ăn lương khô và nước chanh pha muối, chúng tôi cũng đến được điểm tập kết của nhóm PGCM số 2 là mốc 82 (thuộc địa phận xã Dào San, Phong Thổ, Lai Châu). Buổi giao lưu văn nghệ trên đỉnh cao 2.300m là kỷ niệm mãi không quên trong mỗi chúng tôi. Chỉ vài gốc cây đủ làm nên ngọn lửa ấm, chẳng ai ngại ngần khi hát những bài ca chỉ thuộc một nửa. Khi lửa không còn cháy cũng là lúc ngồi lại kể cho nhau nghe những câu chuyện trong thời gian “đáng sống” trên suốt dải đường biên giới dài 200,7km từ rừng U Ma Tu Khoòng đến hết xã Nậm Xe (Phong Thổ, Lai Châu). Đó là chuyện y sĩ Đinh Văn Nam với cuộc “đại tiểu phẫu” vì đã khâu tới 23 mũi cho một dân công ngã tại mốc 46. Những cảm xúc khi đi qua bản Hồng Ngài, nơi được gọi là “quê hương thứ 2 của vợ chồng A Phủ”. Đêm trăng trong rừng thảo quả, những chàng trai 3 tháng nằm rừng kể chuyện con gái ngoài phố. Rồi có lần 3 tháng trời “ăn chực, nằm chờ” để cắm cho kỳ được mốc 60, nơi mà chỉ có người Hà Nhì và người La Hủ sinh sống và rất ít người biết tiếng phổ thông.
Không biết có phải vì thương các anh vất vả hay vì cách nói chuyện “tay nhiều hơn lời” mà các anh đã sống rất hoà hợp với đồng bào La Hủ ngần ấy thời gian. Rồi tất cả trầm xuống khi nói về y sĩ, liệt sĩ Đặng Xuân Đủ nơi thăm thẳm rừng U Ma Tu Khoòng vào cái đêm mùng 2 rạng sáng ngày 3-5-2005. Anh mất vì bị thương, không kịp cấp cứu khi mới 27 tuổi đời, chưa tròn 2 tháng đi PGCM, để lại nỗi tiếc thương cho bao người…
Khi tôi đặt bút viết những dòng chữ này, nhiều người đã trở về đơn vị cũ, tiếp tục sự nghiệp bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới, một số khác lại lên đường nhận nhiệm vụ tôn tạo mốc trên tuyến Việt – Lào) và Việt Nam – Cam-pu-chia. Xin gửi lời cảm ơn và chúc các anh tiếp tục công việc vinh quang mà Tổ quốc trao cho.
Bài và ảnh: Trúc Hà