Vào những năm 1960-1970 của thế kỷ 20, địa danh Bến En được biết đến với các khu rừng lim thuần loại, đường kính hàng mét và nhiều loài gỗ quý như vù hương, đinh hương, chò chỉ, giổi xanh... Đáng chú ý, trước năm 1992, khu vực Bến En còn có loài voi, đặc biệt là vượn má trắng (loài đang bị đe dọa toàn cầu). Với mục tiêu bảo tồn hệ động vật nói chung, quần thể voi, vượn má trắng nói riêng và hệ thực vật thượng nguồn sông Mực, năm 1986, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã ra Quyết định số 194/CT ngày 9-8-1986 công nhận Bến En là khu rừng đặc dụng. Ngày 27-1-1992, theo Quyết định số 33/TTg của Thủ tướng Chính phủ, VQG Bến En được thành lập nằm trên địa bàn hai huyện Như Xuân và Như Thanh (Thanh Hóa), có tọa độ địa lý: Từ 19°30' đến 19°40' độ Vĩ Bắc và 105°21' đến 105°35' độ Kinh Đông. Diện tích vùng lõi là 16.634ha bao gồm một phần diện tích các xã Xuân Thái, Bình Lương và Xuân Bình; vùng đệm có diện tích 12.000ha.

Đoàn công tác của tác giả đi khảo sát thực địa trên hồ Bến En.

Đặc điểm địa hình VQG Bến En là vùng đồi và núi thấp, có thể chia thành hai khu vực: Khu vực núi thấp có độ cao lớn nhất so với mực nước biển là 497m, thấp nhất là 304m; độ dốc trung bình từ 20 đến 25 độ, có nơi dốc đến 45 độ. Khu vực đồi gò, độ cao không quá 150m, độ dốc trung bình từ 15 đến 20 độ. Được hình thành từ nền đá mẹ là đá vôi và đá phiến thạch sét, đất của VQG Bến En chủ yếu là feralit vàng, vàng đỏ, thành phần cơ giới từ trung bình đến nặng, tầng dày, nhiều dinh dưỡng, khả năng hấp thụ tốt. Với nền khí hậu nhiệt đới gió mùa, đất tốt, hàm lượng dinh dưỡng cao, nơi đây đặc trưng bởi hệ sinh thái rừng kín nửa rụng lá ẩm nhiệt đới có ưu thế là lim xanh. Ngoài ra, còn có chò chỉ, vù hương, ngát, giổi xanh, săng lẻ. Trong đó, săng lẻ là loài cây rụng lá điển hình thường phân bố ở những vùng có lượng mưa lớn và mùa khô kéo dài như: Tây Nguyên, Nam Bộ hoặc tây bắc tỉnh Nghệ An, như Mường Xén, Con Cuông; một vài địa điểm ở Sơn La, Lai Châu, Điện Biên. Cây săng lẻ ở Nam Bộ được gọi là bằng lăng ổi hay sra lao, có tên khoa học là Lagerstroemia tomentosa. Loài cây này thân có vỏ màu trắng xen những khoanh tròn màu đen trông như những vết sẹo rất lạ mắt. Ngoài săng lẻ, VQG Bến En còn giữ được một cây lim cổ thụ cao khoảng 30m, đường kính 1m, đã trở thành di sản thu hút sự quan tâm của du khách.

Làm nên vùng sinh thái đặc thù của tỉnh Thanh Hóa, VQG Bến En còn có hồ nước rộng hơn 2000ha với 21 hòn đảo lớn nhỏ, nhiều bán đảo hầu hết được che phủ bởi thảm thực vật rừng cùng một số loài động vật có xương sống trên cạn như: Chim, thú, bò sát, ếch nhái. Một số loài cây không chỉ chịu được ngập úng mà còn có hoa đẹp như lộc vừng, xương cá làm cho cảnh sắc hồ thêm rực rỡ. Hồ Bến En vào những năm 80 của thế kỷ 20 là nguồn cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp các xã vùng hạ, đồng thời là nguồn cung cấp thực phẩm với sản lượng đánh bắt hằng năm 14-30 tấn cá. Tuy nhiên, sản lượng cá giảm dần nên hiện nay đơn vị thủy sản đã ngừng quản lý hồ.

Có thể khẳng định, VQG Bến En không chỉ có giá trị về bảo tồn đa dạng sinh học mà còn có tiềm năng du lịch. Đến đây, du khách sẽ được ngắm cảnh đẹp với những chùm hoa lộc vừng dài tới 0,5m soi bóng trên mặt hồ, được thấy cây lim cổ thụ-chứng tích của rừng lim đại ngàn và cây săng lẻ-sứ giả của rừng rụng lá Tây Nguyên, Nam Bộ. Hơn nữa, du khách sẽ được thưởng ngoạn một “Vịnh Hạ Long” thu nhỏ với các đảo, hang động như cụm hang Ngọc trong vùng hồ nổi tiếng, có cửa hang rộng 8m, cao 2,5m, hang dài 80m, rộng hơn 20m. Trong hang có nhiều thạch nhũ đẹp, đa dạng, giữa hang là hòn Ngọc do thạch nhũ kết tinh, đường kính tới 1,5m. Cách đó khoảng 150m là hang Cận cũng có lòng hang khá rộng, thoáng mát. Ngoài ra còn có di tích lịch sử là hang Lò Cao Chiến Thắng, nơi đây gắn liền với Thiếu tướng, Viện sĩ, Giáo sư Trần Đại Nghĩa và các chiến sĩ quân giới trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946-1954).

Bài và ảnh: TS LÊ TRẦN CHẤN - TS NGUYỄN VIẾT LƯƠNG