Thiếu tướng Trần Hoa, Tư lệnh BĐBP tặng quà cho cháu Siu Hly ở xã I-ao, huyện Ia Grai (Gia Lai). Ảnh: TUYÊN HUẤN

Tư lệnh Bộ đội Biên phòng - Thiếu tướng Trần Hoa - là một người sôi nổi. Nhưng, đó là khi ông nói về công việc, về đồng đội. Còn về những chiến công mà ông đã ghi dấu ấn trong cuộc đời quân ngũ của mình, ông thường cười trừ và chậm rãi kể những câu chuyện buồn vui về Đà Nẵng. Đó là thành phố ông đã dành 30 năm sung sức nhất của cuộc đời mình để viết nên một khúc quân hành lặng lẽ mà oanh liệt.

Cuối năm 1974, chàng lính trẻ quê đất cố đô Hoa Lư đặt chân đến Đà Nẵng trong chiến dịch giải phóng thành phố này. Như bao người lính thời bấy giờ, Trần Hoa ngỡ ngàng trước sự sầm uất của một thành phố cảng đầy sôi động và anh cũng không thể ngờ rằng cái đô thị náo nhiệt ấy lại là nơi mà anh sẽ gắn bó cả sự nghiệp của mình.

Ngay khi Đà Nẵng giải phóng, Trần Hoa được chọn vào Ban Trinh sát của Công an vũ trang, ở lại thành phố để bóc gỡ địch ngầm. Với nhiệm vụ này, năng khiếu điều tra của Trần Hoa được bộc lộ và năm sau anh được cử đi đào tạo lớp sĩ quan biên phòng khóa đầu tiên tại Vũng Tàu. Tốt nghiệp, anh được giữ lại để quản lý học viên, nhưng rồi con người hành động trong anh không ngủ yên. Năm 1982, Trần Hoa trở về Ty Công an Quảng Nam - Đà Nẵng, làm Đội trưởng Đội an ninh cảng. Thời điểm đó, tình hình an ninh ở Đà Nẵng rất phức tạp. Bọn phản động do địch cài lại vẫn tiến hành các hoạt động bạo động, chống phá và xúi giục vượt biên. Cái máu điều tra trong người khiến anh không muốn chỉ bó gọn công việc giữ vững an ninh trật tự khu vực cảng biển mà còn lên kế hoạch xóa nhiều băng nhóm phản động. Điển hình là xóa sổ nhóm phản động do anh em Huỳnh Phúc Lôi, Huỳnh Phúc Châu cầm đầu, rồi vụ Mai Đăng Lự… thậm chí, Trần Hoa còn kéo cả anh em học viên an ninh về nhà mình làm án. Những chiến công táo bạo của Trần Hoa khiến anh trở thành “khắc tinh” của các băng nhóm phản động ở Đà Nẵng. Hồi đó, nhiều nhà báo đến gặp anh để khai thác viết bài, anh từ chối. “Mình nghĩ không có ai hoàn hảo cả đâu. Việc mình làm, thành công nhiều, thất bại cũng có. Ngay cả thành công thì cũng có nhiều quan điểm, cách nghĩ khác nhau... Mình chỉ muốn cặm cụi làm, lấy hiệu quả công việc làm niềm vui cho bản thân, không muốn đưa lên mặt báo đâu”.

Năm 1992, bắt đầu thời mở cửa, vùng biển Nam Trung Bộ trở thành “thiên đường” buôn lậu, khu vực ngoài khơi tỉnh Bình Định thậm chí còn được mệnh danh là “Hồng Công” trên biển. Trần Hoa lúc đó là Đồn trưởng Đồn cảng Đà Nẵng, nhiều đêm nằm vắt tay lên trán để tìm bằng được phương cách phá “chợ Hồng Công trên biển”. Mong muốn là vậy, nhưng với thực lực của Bộ đội Biên phòng khi đó quả không dễ chút nào. Tàu tuần tra biên phòng chỉ chạy được tối đa 8 hải lý/giờ, ra-đa không có, định vị cũng không, liên lạc cũng không nốt… Trần Hoa bồi hồi nhớ lại: Hồi đó, mình đi từ Đà Nẵng vào Bình Định, anh em bảo: “Như một thằng vừa điếc, vừa mù, vừa câm mà dám cả gan đi đánh buôn lậu”. Nhưng trong hoàn cảnh khó khăn ấy, Trần Hoa và đồng đội đã sáng tạo ra giải pháp hợp đồng sử dụng hệ thống thông tin liên lạc của các đơn vị trên các đảo để báo tin. Sự sáng tạo bất ngờ ấy đã giúp lực lượng biên phòng tiếp cận, bắt thành công hai tàu buôn lậu lớn là Phương Mai 18 và Quang Trung 15. Vụ án này hồi đó đã gây chấn động vì số hàng lậu bắt được rất lớn. Thời điểm năm 1992 mà đấu giá thu về 11 tỷ 280 triệu đồng. Hai “con cá” to nhất bị bắt, “tập đoàn” buôn lậu trên biển Nam Trung Bộ tan rã, không thể hoạt động mạnh như trước.

Kinh nghiệm chống buôn lậu của BĐBP Đà Nẵng đã được tổng kết, đúc rút và được vận dụng có hiệu quả. Năm 2002, trên cương vị Chỉ huy trưởng BĐBP thành phố Đà Nẵng, với chiến dịch 100 ngày đêm trên biển, Trần Hoa đã trực tiếp chỉ huy, chỉ đạo, với những cách đánh linh hoạt, táo bạo, bí mật, bất ngờ tóm được 28 tàu buôn lậu, lập chiến công lớn trên biển miền Trung. Trung tá Hoàng Ngọc Quỳnh, Hải đội trưởng Hải đội 2, BĐBP Đà Nẵng nhớ lại: Câu chuyện về “chiến dịch 100 ngày đêm trên biển” thật ly kỳ. Hải đội do tôi chỉ huy được Chỉ huy trưởng Trần Hoa sử dụng vào mũi xung kích chủ yếu. Những con tàu của chúng tôi lúc ẩn, lúc hiện, rình rập săn mồi giữa biển trời mênh mông sóng nước. Nhất cử, nhất động chúng tôi làm theo mệnh lệnh của chỉ huy. Trần Hoa giống như một cỗ máy ra-đa thần kỳ: nhận, sàng lọc chính xác các nguồn thông tin và ra lệnh cho chúng tôi hành động. Ông ngồi ở sở chỉ huy, mà chúng tôi có cảm giác ông đang ở trên cao, quan sát, nắm rõ các động thái và toàn bộ thế trận trên biển. Ông chỉ điểm, ra lệnh cho chúng tôi truy đuổi và vây bắt từng con tàu cụ thể, đánh đâu trúng đó. Và cũng thật kỳ lạ, trời đã ủng hộ chúng tôi. Hoàn thành chiến dịch, kết thúc 100 ngày đêm trên biển, khi thu quân về đến cảng thì giông bão lại nổi lên. Đó là một trong những chiến công lẫy lừng mà Đại tá Dương Đề Dũng, quyền Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng Đà Nẵng, mỗi khi nhớ lại vẫn thường nhắc: “Riêng công tác chống buôn lậu trên biển, anh Hoa đã xứng đáng được phong tặng danh hiệu anh hùng”. - Kể với Trần Hoa chi tiết đó, ông lại cười:

- Mình đánh án đâu phải để trở thành anh hùng, mình là Bộ đội Biên phòng, sao có thể ăn ngon ngủ yên khi mà bọn buôn lậu nó ngang nhiên hoành hành ngay trước mắt.

Không thể ăn ngon ngủ yên khi mà chưa thể làm tốt nhất công việc của mình, đó cũng là một phần tính cách của Trần Hoa. Ông Lương Minh Sâm, Giám đốc Sở Ngoại vụ Đà Nẵng còn nhớ một kỷ niệm về Trần Hoa như sau: “Hồi những năm 90, mình làm Giám đốc Sở Du lịch. Đó là thời kỳ mà du khách quốc tế bắt đầu đến Đà Nẵng nhiều, có những con tàu gần 4.000 khách vào một lúc, mình lo lắm! 4.000 khách, mỗi khách làm thủ tục nhanh nhất cũng phải mất một phút, có giăng hết quân của Đồn Biên phòng cửa khẩu Cảng ra làm thì cũng phải mất mấy ngày. May mà anh Hoa đã có sáng kiến làm thủ tục cho du khách từ trước khi tàu đến Việt Nam”. – Sáng kiến của Biên phòng Đà Nẵng, qua lời kể của ông Sâm, nghe có vẻ đơn giản, nhưng thời điểm đó là một bước đột phá vô cùng táo bạo. Trước khi có sáng kiến đó, mỗi khi tàu vào, lực lượng thủ tục cửa khẩu cảng hoa cả mắt vì công việc. Anh Trần Ngọc Hữu, Đồn trưởng Biên phòng cửa khẩu Cảng, nhớ lại: “Hồi đó, tôi làm đội phó đội thủ tục, mỗi khi đón tàu du lịch, anh em phải giăng quân, dàn hàng ngang trên tàu, chỉ riêng việc đối chiếu danh sách, kiểm tra hộ chiếu đã đủ mất thời gian, mình sốt ruột đã đành, các hãng tàu còn sốt ruột hơn vì để làm xong thủ tục, cho bằng ấy con người lên tàu thì mất cả ngày trời của họ…” – Làm thế nào để bảo đảm an ninh trong khi vẫn tạo điều kiện thông thoáng cho du khách đến với Việt Nam? Đó là một bài toán khiến Trần Hoa đau đầu. Anh xin ý kiến cấp trên để làm việc với các hãng tàu. Yêu cầu họ cung cấp lịch trình, điểm dừng cuối cùng trước khi đến Việt Nam. Từ đó, anh cử cán bộ căn cứ theo lịch trình được hãng tàu cung cấp, bay sang Xin-ga-po, Hồng Công (Trung Quốc) đón tàu. Các sĩ quan thủ tục mang theo bộ dấu kiểm chứng xuất nhập cảnh, lên tàu làm thủ tục. Khi tàu về đến Đà Nẵng thì mọi thủ tục đã hoàn tất. Ông Lương Minh Sâm còn nhớ, thời ấy mỗi năm có tới hơn 40 chuyến tàu du lịch cập cảng Đà Nẵng, nếu như không có sáng kiến đột phá về thủ tục của Bộ đội Biên phòng, chắc chắn sẽ không thể bảo đảm việc tạo điều kiện thuận lợi cho du khách để phát triển ngành du lịch. Trần Hoa là vậy, ông luôn có những ý tưởng mang tính đột phá, những cách nghĩ, cách làm khác với lối mòn. Rất nhiều thành viên của Ủy ban Quốc gia Tìm kiếm cứu nạn còn chưa thể quên nổi chuyến đi bão táp năm 1999. Năm đó, từ Thừa Thiên - Huế đến Quảng Ngãi ngập chìm trong biển nước. Đồng chí Nguyễn Huy Hiệu, lúc đó là Trung tướng, Phó chủ tịch thường trực Ủy ban Quốc gia Phòng, chống bão lụt, tìm kiếm cứu nạn, từ Thành phố Hồ Chí Minh bay đến Đà Nẵng để chỉ đạo các lực lượng đối phó. Trên đường bay, đồng chí Nguyễn Huy Hiệu đã chỉ đạo triệu tập cuộc họp khẩn cấp, gồm chỉ huy các đơn vị đóng tại Đà Nẵng. 19 giờ, vừa xuống sân bay quân sự Đà Nẵng, Trung tướng Nguyễn Huy Hiệu đã thấy thành phần triệu tập họp có mặt đầy đủ chờ ý kiến chỉ đạo của ông. Sau khi chỉ đạo các đơn vị quân đội tiếp tục hành động đối phó với diễn biến phức tạp của mưa bão, đồng chí yêu cầu: “Trong đêm nay, đoàn công tác của tôi phải đến được nơi trung tâm bão, lụt ở Quảng Ngãi”. Lúc này, các đường đi tới Quảng Ngãi đều bị chia cắt. Đường bộ ngập, đường hàng không, lực lượng không quân thông báo không thể bay được; hỏi hải quân, hải quân trả lời không an toàn với sóng, gió cấp 11, quay sang biên phòng, Trung tướng hỏi Trần Hoa. Trần Hoa như hiểu được nỗi lòng của vị chỉ huy trong giờ phút nguy cấp. Anh xin 10 phút để nghe anh em báo cáo khả năng đi ra cửa Vịnh của tàu Biên phòng. 10 phút trôi qua, không khí cuộc họp sôi động trở lại khi Trần Hoa nhận nhiệm vụ đưa đoàn đi bằng đường biển. Trần Hoa quyết định dùng tàu Bộ đội Biên phòng đưa đoàn lên tàu có trọng tải lớn của Ủy ban Quốc gia tìm kiếm cứu nạn đang đậu ngoài cửa Vịnh. Rời khỏi cuộc họp, trên đường trở về đơn vị thực hiện nốt công tác hiệp đồng cho chuyến đi, anh Hoa ra lệnh Hải đội 2 chuẩn bị tàu, nấu một nồi cháo to để 21 giờ tối xuất phát từ cảng Tiên Sa. Gần một giờ đồng hồ, hình ảnh con tàu vật lộn với sóng gió trên cửa Vịnh trong cơn bão thật khủng khiếp, kinh sợ. Tàu tuần tra của Bộ đội Biên phòng chỉ chịu được gió cấp 6, tuy gió ở cửa Vịnh nhỏ hơn vài cấp so với ngoài khơi, nhưng vẫn cao hơn sức chịu đựng của tàu. Nguy hiểm cao độ đang trực tiếp đe dọa tính mạng của đoàn công tác. Tuy đã quen cảnh chiến đấu, xông pha trận mạc chiến trường, hoặc dầm mình trong mưa bão để cứu dân, nhưng lần này đứng bám vào con tàu đang bị sóng, gió tung lên, hạ xuống hàng chục mét, với độ nghiêng lệch hơn 35o, cảm giác rợn người đang làm lung lạc ý chí của các thành viên trong đoàn. Không ai nói ra nhưng đều cho rằng: Trần Hoa quá mạo hiểm. Giữa đêm tối bão bùng, nguy khốn, bản lĩnh của người chỉ huy trong anh lại được khẳng định. Anh vừa chỉ huy tàu vừa nói rõ phương án bảo đảm an toàn nếu tàu bị nạn đã được tính toán từ trước. Ý chí, bản lĩnh của người chỉ huy và cán bộ, chiến sĩ trên con tàu đã vượt qua được thử thách đầu tiên, tưởng chừng không vượt nổi của chuyến đi. 22 giờ cả đoàn công tác đã được đưa lên tàu của Ủy ban Quốc gia tìm kiếm, cứu nạn an toàn. Tàu vượt bão ra đến cửa sông Cái thì tất cả đều say, chỉ còn Trần Hoa, thuyền trưởng và chiến sĩ đầu bếp là tỉnh táo. Qua Mũi Nê, tàu càng đi thì sóng càng dữ, anh em trong đoàn nhiều người gợi ý nên quay lại, nhưng Trần Hoa vẫn quyết định đi tiếp vì xác định bão đi ra, tàu đi vô, ngược bão để tránh bão. Trong chuyến đi, khó khăn nhất là ở điểm xuất phát dùng tàu trọng tải nhỏ đưa đoàn ra cửa Vịnh Đà Nẵng để lên tàu lớn và ở điểm cuối của cuộc hành trình là đưa đoàn lên bờ. Ở điểm xuất phát, Trần Hoa sử dụng các thủy thủ cự phách đã từng đuổi bắt các tàu buôn lậu trong sóng to, gió lớn. Ở điểm cuối cùng, Trần Hoa đã tính toán lựa chọn điểm cập bờ. Đó là vịnh Dung Quất. Ở đây, theo quy luật, cấp độ sóng gió thấp hơn ở các nơi khác trong vùng. Không những thế, để tổ chức đưa đoàn vào bờ an toàn, phải có phương tiện cập tàu phù hợp. Lúc này gió vẫn mạnh, các tàu, thuyền, không thể cập mạn tàu của đoàn, chỉ có thuyền thúng, sóng không bị lật, cập vào tàu không bị va đập mạnh. Hiểu thực tế đó, Trần Hoa đã tìm cách liên lạc hiệp đồng với chính quyền địa phương yêu cầu sử dụng những ngư dân có kinh nghiệm dùng thuyền thúng đưa từng cán bộ lên bờ.

Sau vụ mở đường qua tâm bão ấy, nhiều người cho rằng, Trần Hoa liều lĩnh bạt mạng, nhưng ông biết rằng không phải tự nhiên mà có thể quyết định được. Ở với dân, phải quan sát, học hỏi người dân, biết được cá tính, đặc điểm của từng vùng miền, từ đó hòa nhập với người ta và dễ dàng đưa ra những quyết định phù hợp nhất. Trần Hoa tâm sự: “Mình còn nhớ một ông lão ngư dân. Ông ấy lên trình sổ thì lính nhà mình cũng hỗn: “Ê ông già”. Lính đã hỗn thì lại gặp ông già miền biển: “Má mày, mày ê ai đấy mày!”. Nghe vậy mình biết là hỏng, là không còn ranh giới giữa chính quyền và nhân dân nữa. Phải uốn nắn ngay. Hoặc có những chuyện như thế này, thuyền của dân đi qua trạm, người ta quăng mấy con cá lên cho anh em. Ở với dân thì dân người ta thương, người ta ném mấy con cá lên nghĩ là chuyện bình thường. Nhưng có nhiều anh lợi dụng cái đó, có khi đem đi bán trong thời buổi khó khăn. Rồi thành lệ, không có mấy con cá thì lại gây khó dễ cho người ta. Cái này thì chết, chính cái này mình phải sâu sát. Mình đã từng đi đánh cá với dân và thức cả đêm xem người ta làm gì. Có những khi họ lỗ liên tục, nhà thất nghiệp, thế nên mình hiểu, thông cảm với người ta, từ đó mình giúp người ta được cái gì quý cái ấy. Đây mới thực sự là ba cùng, bốn cùng với nhân dân”. Sống với dân, học hỏi những kinh nghiệm của người dân để mà áp dụng trong những tình huống không có nhiều lựa chọn. Triết lý sống ấy được Trần Hoa áp dụng cả trong việc quản lý bộ đội. Để nắm được quân thì ông phải hiểu biết về khả năng, trình độ, tâm lý, sở trường, sở thích của từng người, từ đó chắt lọc cái gì là cái tốt của anh em để ngợi khen, khích lệ và sử dụng, còn những cái xấu thì chế ngự. Ông đúc kết được một chân lý rằng: “Làm chỉ huy, làm lãnh đạo mà xa rời anh em, xa rời thực tế thì không biết thương quân đâu”. Khi còn ở Đà Nẵng cũng vậy, mà bây giờ cũng thế, ông luôn luôn nói: “Trên phải đi về dưới và trên phải cho dưới”. Nghĩ khác, làm khác không phải bao giờ cũng mang lại thuận lợi cho Trần Hoa. Đôi khi sự đột phá trong tư duy của ông gặp phải những rào cản của thói đời, mệt mỏi lắm, nhưng anh tin vào cái tâm của mình. “Làm lãnh đạo làm sao phải thu phục anh em bằng nhân tâm chứ không phải khẩu khí!” – Chính vì vậy mà ông có thể ngồi cả giờ nghe cấp dưới nặng lời với mình. Ông ngồi im lặng, lắng nghe hết những bức xúc của người lính già lên gặp Tư lệnh để khiếu nại bằng một sự cảm thông tuyệt đối. Đợi khi người lính trút hết nỗi bức xúc ấy rồi, ông mới ôn tồn nói: “Tôi biết anh bức xúc, tôi chia sẻ với anh. Nhưng tôi cũng phê bình thái độ của anh. Tôi với anh cùng một vợ hai con, cùng có bao nhiêu mối quan tâm. Nhưng ngoài chừng đó thì tôi còn phải quan tâm tới cả mấy vạn quân và bao nhiêu ban, ngành địa phương… Chừng đó mối quan hệ, tôi mới là người căng thẳng hơn anh. Chúng ta đều là những người lính, lẽ ra anh phải thông cảm và chia sẻ với tôi. Đằng này anh lên đây nói văng mạng, anh bức xúc, anh chửi cá nhân tôi, tôi nghe. Nhưng anh xúc phạm Bộ tư lệnh, xúc phạm lực lượng thì tôi sẽ không để yên cho anh”. Người lính già ấy nghe vậy thì im lặng, và mọi việc nhanh chóng được giải quyết trong không khí chan hòa, nhẹ nhõm.

Những đêm trắng thức cùng chiến sĩ biên phòng trong các chuyến công tác, tôi được nghe rất nhiều câu chuyện như huyền thoại về Trần Hoa. Thế nhưng, khi gặp ông, nói về những huyền thoại đó, ông chỉ coi đó là những kỷ niệm thật giản dị. Giản dị như bản chất của những người lính thực thụ, những người luôn xác định “đời mình là một khúc quân hành”. Vâng, khúc quân hành lặng lẽ, đó là ấn tượng của tôi về những chiến công như huyền thoại của Thiếu tướng Trần Hoa.

Bài và ảnh: PHẠM TRUNG