Bài 2: Không dễ giã từ “nghề bán bom”

Ở Quảng Trị, chiến tranh không chỉ để lại đạn bom, chết chóc mà còn để lại sự nghèo đói. Sự nghèo đói đã sinh thêm một nghề nguy hiểm: Nghề thu gom phế liệu chiến tranh…

Mua sắt vụn, mua cả bom!

Lật giở số liệu điều tra của Trung tâm Công nghệ xử lý bom mìn (Bomicen) mà không khỏi nhói lòng: Ở Quảng Trị, 98% số xã từng có “phong trào” rà phá phế liệu chiến tranh, đứng đầu trong 6 tỉnh miền Trung được khảo sát. Trong số hơn 7.000 người thương vong do bom mìn sau chiến tranh, có tới 34% do rà phế liệu. Những con số đó thôi thúc tôi đi tìm những đại lý phế liệu chiến tranh…

Đến thị trấn Hướng Hoá, tôi may mắn được một người bạn là cán bộ địa phương “bật mí”: Các đại lý giờ còn ít lắm, nhưng gần đây vẫn còn một cái từng là đại lý phế liệu chiến tranh lớn nhất vùng! Đó là cửa hàng của ông Nguyễn Phúc ở thôn Quyết Tâm, xã Tân Hợp.

Những vỏ bom tại đại lý phế liệu chiến tranh của ông Phúc.

Dù chiều đã muộn, tôi lập tức lên đường. Từ thị trấn Hướng Hoá, chạy ra đường Hồ Chí Minh, qua khu phố mới đang mọc lên khang trang, tôi thấy một ngôi nhà nhỏ nằm khuất mình giữa hai đống sắt vụn to đùng chắn hai bên, chỉ chừa lối vào. Đó chính là đại lý của ông Phúc với cái biển đề “thu mua sắt vụn”. Ông Phúc đi vắng, chỉ có người con trai tên Phương luôn miệng nói: “Không biết đâu, hỏi ông già!” tiếp chúng tôi. Phương hồn nhiên dẫn chúng tôi đi khoe những vỏ bom, vỏ đạn nằm la liệt. Phần nhiều là những quả bom cỡ 500 bảng đến hàng nghìn bảng Anh đã được tháo ngòi nổ, xếp chồng lên nhau. Có nhiều quả đã được cưa ra lấy thuốc nổ, bổ đôi thành hai mảnh nằm lăn lóc. Anh bạn đi cùng bạo dạn nhảy lên đống sắt vụn, đi sâu vào trong. Một lát sau, anh chạy ra reo lên:

- Có “hàng độc” đây!

Trên tay anh, hai quả đạn cối đã han gỉ kèm theo một quả lựu đạn. Tôi cầm lên, thấy nó còn nặng trịch, chẳng rõ bên trong còn thuốc nổ và ngòi nổ hay không, đành bảo bạn cất ngay đi “cho lành”.

Chỉ cho tôi một quả bom nằm lăn lóc cạnh sân nhà, Phương khoe: “Mua không? Quả này một tạ hai, giá sắt vụn sáu ngàn một cân, có hơn sáu trăm ngàn à”?

Tôi nhẩm tính, một quả bom tìm thấy, mà mới là loại bom “thường thường bậc trung” chỉ riêng tiền sắt vụn đã 600-700 nghìn đồng, thảo nào người dân ham nghề thu gom phế liệu? Anh Hà Ngọc Giao, Phó bí thư huyện đoàn huyện Hướng Hoá cho biết: “Ngày trước, ở Tân Hợp có tới dăm bảy đại lý, giờ chỉ còn ông Phúc, nhưng ông làm ăn cũng lay lắt vì chẳng còn nhiều người dân thu gom phế liệu từ bom đạn như trước…”. Nói vậy, nhưng sơ sơ đếm tại đại lý ông Phúc, chúng tôi thấy có tới hàng trăm vỏ bom tấn và nhiều vỏ đạn, đầu đạn pháo khác nhau cũng như nhiều loại mũ sắt, thiết bị chiến tranh khác. Vậy mà, trong nhà ông, chúng tôi vẫn thấy treo bảng cam kết “tuyệt đối không mua bán, tàng trữ, vận chuyển các loại vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ…”!? Có cầu thì vẫn có cung, ở Quảng Trị, không biết còn bao nhiêu cửa hàng thu gom sắt vụn vẫn thu gom cả bom như của ông Phúc? Cửa hàng ông Phúc ở vào giai đoạn hấp hối của nghề buôn bán phế liệu chiến tranh mà vẫn còn nhiều loại bom đạn được tập kết về như thế, không hiểu thời hoàng kim của nó, mức độ còn kinh khủng đến đâu?

Những mảnh đời “kền kền chiến tranh”?

Ngược dòng lịch sử để thấy được nguồn gốc chuyện buôn bán phế liệu. Nhà sử học kinh tế Đặng Phong, tác giả cuốn sách “21 năm viện trợ kinh tế Mỹ ở Việt Nam” viết: “Nhiều sĩ quan ngụy thú nhận rằng có khi chỉ vì cần tiêu một món tiền nào đó, chẳng hạn tậu một chiếc xe hơi kiểu mới, mà hắn hạ lệnh báo động và cho bắn như mưa vào vùng giải phóng. Sau đó, người ta thấy có những xe tải đến “dọn dẹp” đi mấy chục vạn vỏ đạn “phế thải”.

Đó là chuyện buôn bán phế liệu thời chiến, còn thời bình, bom, đạn bị cấm mua bán, người dân chỉ còn có thể lén lút khai thác trong lòng đất với đầy rẫy hiểm họa nhưng con số hơn 7.000 người chết và bị thương trong vòng 35 năm qua chưa phải là lời cảnh báo đủ cho những người dân giã từ kiếp “kền kền chiến tranh”. Xã Hải Thái (Gio Linh, Quảng Trị) hiện nổi tiếng là “xã đại học” với nhiều con em ăn học thành tài. Vậy mà cách đây ít lâu, các cựu chiến binh Mỹ về thăm xã, chiến trường năm xưa, không khỏi ngạc nhiên khi nghe người dân tâm sự: “Hàng ngàn người dân Hải Thái chúng tôi ai cũng sống bằng nghề dọn bom mìn”. Cách xã Hải Thái không xa là xã Gio Thành, nơi mà mỗi buổi chiều về, không hiếm cảnh đội quân thu gom cưỡi công nông chở những vỏ bom vừa kiếm được trở về với niềm vui “thắng lợi”. Một người dân cho biết, đạn nhỏ được giới thu phế liệu mua với giá 1.000-2.000 đồng/viên, đạn lớn hơn từ vài chục ngàn đến 100.000 đồng/quả. Có lần, dân trong làng còn đi đào được cánh của một máy bay và bán với giá 5 triệu đồng, cả làng xôn xao như trúng… xổ số.

vỏ bom, đạn bên cạnh dụng cụ “cưa” bom.

Tới xã Cam Tuyền, huyện Cam Lộ, chúng tôi được biết tới thôn Tân Hiệp nổi tiếng là thôn của nghề rà phá phế liệu song thật đáng buồn đó cũng là thôn của những… phế nhân. Có đến 80% số dân trong thôn từng hoặc đang làm nghề rà phá phế liệu, có cả trẻ em bỏ học đi làm nghề này. Đi từ đầu đến cuối thôn, gặp không hiếm người bị thương tật cũng như nhiều phụ nữ góa bụa vì chồng rà phá bom mìn như các chị Trần Thị Chìa, Trần Thị Gái, Mai Thị Thương, Nguyễn Thị Thu... Có gia đình cả hai cha con có cùng một ngày giỗ chỉ vì cùng cưa một quả bom. Có người như ông Nguyễn Văn Mạnh đã bị mất một con mắt và một ngón tay nhưng vẫn lao vào nghề nguy hiểm này. Cuộc đời ông có thể kể nhanh như một tiếng nổ: Bản thân bị chất độc da cam, đứa con 16 tuổi cũng bị chất độc trở nên ngây ngô, nhà quá nghèo, ông Mạnh chẳng còn nghề gì khác.

Vì sao nguy hiểm mà họ không sợ? Có thể tìm thấy câu trả lời qua cách dùng từ “trúng bom” y như “trúng số” của người dân Tân Hiệp. Chỉ cần “đầu tư” một cái máy rà phá 300-400 nghìn đồng, gặp quả bom đã kiếm được vài trăm nghìn đồng đến cả triệu đồng. Có người “hên” hơn, trúng cả hầm đạn thì cứ gọi là “ăn đủ”, dễ hơn làm ruộng ở vùng quê “đất cày lên sỏi đá”. Ruộng ít, thu nhập lại chỉ trông vào một vụ lạc mùa mưa thì người dân làm sao đủ sống?

Đi giữa cái nắng đầu hè Quảng Trị, không khó khăn lắm để bạn bắt gặp hình ảnh một người nào đó lưng đeo gùi hoặc tay cầm bao tải, tay cầm máy rà tự chế đang đi “kiếm ăn”. Thậm chí, ngay giữa thành phố Đông Hà, khu phố 2, phường 4 là nơi có rất nhiều người làm nghề rà tìm phế liệu chiến tranh. Dân khu phố này vốn là hơn 300 hộ vạn đò trên sông Hiếu rời sông nước lên lập nghiệp ở vùng gò đồi phía Tây Đông Hà từ năm 1976. Hết trợ cấp của Nhà nước, phần đông số họ chuyển qua làm nghề rà phá phế liệu vì không bỏ được tập quán sinh sống trên sông nước, không thích nghi với ruộng đồng, vườn tược ở vùng gò đồi cằn cỗi này dù đã có nhiều lớp tập huấn về chuyển đổi cây trồng, vật nuôi. Cả khu phố đã có 29 người đã thiệt mạng, gần 40 người bị thương nặng vì mìn nổ trong lúc rà tìm phế liệu chiến tranh, nhưng họ vẫn chưa từ bỏ nghề. 35 năm sau chiến tranh, họ vẫn như ngày nào lên bờ trong nghèo đói. Ông Nguyễn Xuân Trường, Bí thư chi bộ khu phố đã phải thốt lên: “Gọi là phố, nhưng có lúc chúng tôi đã phải kiến nghị cho người dân hưởng chương trình 135 để giúp họ bỏ nghề mà không được?”.

Hoa trái… mọc lên, đạn bom chìm xuống

Ở xã Mò Ó, huyện Đăk Rông, vợ chồng chị Hồ Thị Điệp đã trở thành triệu phú thực sự từ khi từ giã nghề rà phá phế liệu. Cách đây tròn 5 năm, chị và chồng từ Đắc Lắc trở về quê cũ làm ăn với hai bàn tay trắng. Họ chẳng còn việc gì làm hơn là gia nhập đội quân rà phá phế liệu. Bàn chân hai vợ chồng đã lặn lội khắp núi rừng mấy huyện Cam Lộ, Hướng Hoá, Đăk Rông mà vẫn không đủ sống, lại chứng kiến nhiều cái chết kinh hoàng của những “đồng nghiệp”. Nhưng cũng nhờ lặn lội rừng xanh núi đỏ, chị đã tình cờ phát hiện ra trên những ngọn núi cao, có rất nhiều cây đót có thể làm chổi bán. Chị bàn với chồng, bán máy phế liệu mua dao kéo vào rừng chặt cây đót về làm chổi. Chăm làm, hàng tốt, chị làm tới đâu bán hết đến đó. Ăn lên làm ra, từ chỗ không có xe máy chở hàng, giờ chị đã mua được cả công nông để đi thu gom đót về làm chổi, bán cho các đại lý, thu nhập 4-5 triệu đồng/mỗi tháng. Cũng nhờ chổi đót, cách đây 3 năm, đời sống bớt khó khăn, chị đã đi học và biết chữ. Nhớ lại những ngày rà phá bom mìn, chị vẫn rùng mình: Nếu em không đổi nghề, chẳng biết bây giờ cuộc đời sẽ ra sao!

Anh Hồ Văn Keng, 34 tuổi ở thôn Tà Núc, xã Húc, huyện Hướng Hóa cũng là một người từ giã nghề này sau 12 năm đi kiếm bom mìn mà vẫn không đủ tiền dựng lại căn nhà tranh ọp ẹp. Năm 2008, sau sự kiện ông Ba Hùng ở cùng thôn đi đánh cá dính mìn chết cũng là lúc Keng nhìn lại mình. Thấy bà con trong bản, ai tham gia dự án đầu tư trồng cà phê do Công ty Cà phê dịch vụ đường 9 triển khai từ năm 2000 đều được vay vốn, hỗ trợ giống, kỹ thuật, đầu ra nên làm ăn đều khá lên cả, Keng quyết định đổi nghề. Đến nay, với 10 sào cà phê, sau 2 năm, anh đã có thu nhập hơn 10 triệu đồng mỗi năm. Bí thư đoàn xã Húc Hồ Văn Thăng cho biết: Cũng như Keng, cả xã trước có hơn 100 thanh niên đi rà phá phế liệu, nay đã bỏ nghề gần hết để trồng cà phê, chỉ còn chừng chục người vẫn đeo đẳng cái nghề nguy hiểm ấy.

Cách xã Húc không xa, các xã Tân Long, Tân Thành, Tân Phước… gần đây đã phất lên trở thành giàu có nhờ trồng cây chuối mật mốc còn được xuất khẩu sang Trung Quốc. Như ở xã Tân Long, có khoảng 40% hộ dân có thu nhập từ 100 đến 300 triệu đồng/năm. Vì thế, người dân những xã này chẳng màng đến chuyện rà phá bom mìn và chuyện những người bị thương vong do bom mìn hầu như rất hiếm.

Song đáng tiếc, những mô hình như thế chưa nhiều, hiện vẫn rất ít dự án giúp đồng bào nghèo “nuôi con gì, trồng cây gì” trên những “vùng đất chết” năm xưa để không còn sống kiếp “kền kền chiến tranh”. Có lẽ, chỉ khi nào cây cà phê, cây chuối, hồ tiêu thực sự lên xanh thay thế rừng hoang thì bom mìn mới thật sự không còn “lên tiếng”.

Kinh nghiệm ở Ăng-gô-la

Năm 2005, Đại sứ Ăng-gô-la, nước được Liên hiệp quốc đánh giá là điển hình về khắc phục hậu quả bom mìn đã chia sẻ kinh nghiệm: Việc đầu tiên là phải có một kế hoạch rõ ràng, một nghiên cứu, điều tra, lập bản đồ cặn kẽ về bom mìn. Chúng tôi có kế hoạch nâng cao nhận thức về hiểm hoạ bom mìn; triển khai các dự án để nâng cao đời sống, giúp dân có việc làm ổn định, không phải đi dò tìm, kiếm sống từ phế liệu chiến tranh. Chính phủ nước tôi đã đề ra khẩu hiệu kêu gọi toàn dân: “Biến những khu vực có bom mìn thành những vườn cây xanh trĩu quả!”. 


Đồng chí Bùi Hồng Lĩnh, Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội: "Vừa qua, dự thảo Chương trình hành động quốc gia khắc phục hậu quả bom mìn đã hoàn thành việc lấy ý kiến các bộ ngành, trình Thủ tướng phê duyệt. Khi dự án được thông qua, việc tập trung đẩy nhanh tiến độ rà phá, làm sạch những vùng ô nhiễm nặng và nhiều dự án hỗ trợ người dân sẽ là hướng đi hiệu quả để giảm nhanh tai nạn bom mìn, xoá bỏ nghề rà phá phế liệu chiến tranh…”.

Ghi chép của NGUYỄN VĂN MINH

Bài 3: Những tiếng nói chặn bước tử thần 

Về miền đất sống bên… “thần Chết” (bài 1)