III. Im lìm di tích…

QĐND - Là một trong 3 trạm cơ vụ đường trục từ Hà Nội vào, nằm ở cửa ngõ chiến trường Trị-Thiên, trạm A70 được bố trí nằm giữa 2 trạm A69 và A72. Từ đây còn có các trạm nhánh bảo đảm thông tin liên lạc từ Bộ Quốc phòng trực tiếp đến Sở chỉ huy tiền phương của Tổng cục Hậu cần, Binh trạm 14 và Binh trạm 26 của Bộ đội Trường Sơn (Đoàn 559) và Cục Vận tải tiền phương (Đoàn 500) của Bộ Giao thông Vận tải. Hầu hết các cơ quan, đơn vị trên đây đều đóng ở khu vực Cự Nẫm-Khương Hà-Xuân Sơn và khởi điểm Đường 20 Quyết Thắng nối Trường Sơn Đông-Trường Sơn Tây, thuộc huyện Bố Trạch -Quảng Bình. Vừa bảo đảm liên lạc đường trục, vừa phụ trách các tuyến nhánh nên trạm A70 được trang bị đủ các “chủng loại” phương tiện: Máy tải Ba ZM.132, máy VBO.3, máy TCT1.2, tăng âm 12 đường bảo đảm từ tổng đài A40-Hà Nội, với 30 mạch thoại cao tần và tổng đài 100 số… Biên chế trạm thường xuyên khoảng ba chục cán bộ, chiến sĩ; gồm 3 bộ phận: Nguồn, đường dây và tổng đài.

Ba trạm cơ vụ A69, A70 và A72 cách nhau hơn 200 cây số đường rừng hiểm trở, nhưng đều thuộc biên chế đại đội 7 nên nhiều cựu chiến binh trung đoàn thông tin 134 thời ấy đều đã từng “nếm mật nằm gai” ở cả ba trạm. Đại tá Trần Đăng Tân, nguyên cán bộ Cục Chính trị Bộ tư lệnh Thông tin liên lạc, là một người như vậy. Anh Tân là người Liên Mạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội, đi bộ đội năm 1968, làm lính thông tin hơn bốn chục năm cho đến ngày nghỉ hưu. Những năm 1969-1970 anh ở tổ đường dây Trạm A70 đóng ở cây số 4 Đường 20 Quyết Thắng. Trạm cơ vụ A70 đặt trong một hang đá thuộc quần thể Phong Nha-Kẻ Bàng, gần trọng điểm Khương Hà ác liệt nổi tiếng trên đường Trường Sơn thời chống Mỹ, cứu nước.

Tìm lại “một thời A70” trong hang Thông Tin. Ảnh: Thiết Thạch.

Tôi gặp anh Tân lần đầu vào năm 2009, tại lễ đón nhận danh hiệu Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho trạm cơ vụ A69. Sau này thêm mấy lần gặp anh tại Hội đồng ngũ A69 ở Hà Nội, thành ra thân quen. Tôi là lớp hậu sinh, chưa làm lính thông tin ngày nào, nhưng được kết nạp vào Hội đồng ngũ A69 làm hội viên danh dự, nhờ bài bút ký 5 kỳ “Lèn Hà bi tráng” đăng trên Báo Quân đội nhân dân, được giải thưởng báo chí 5 năm của Bộ Quốc phòng (2004-2009) và được Bộ tư lệnh Thông tin liên lạc đính kèm theo hồ sơ đề nghị phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng cho trạm A69. Mỗi lần hội ngộ là các thành viên say sưa ôn lại những kỷ niệm một thời A69, nhưng anh Tân thì thỉnh thoảng lại “chêm” vào những kỷ niệm một thời A70 của anh cũng rất ấn tượng.

Chẳng hạn như chuyện mùa hè năm 1969, Trạm A70 của các anh được lệnh di chuyển từ cây số 7 ra cây số 4 để nắn tuyến, hôm đầu tiên anh và một chiến sĩ người Phú Thọ quyết định thám hiểm chiếc hang kỳ bí nguy nga như một cung điện. Tuổi trẻ tò mò mạo hiểm, chả biết sợ là gì. Hai đứa một đèn pin lò dò tiến vào, càng đi càng bị kích thích cuốn hút bởi những cột đá sừng sững, những tảng thạch nhũ treo ngược vòm hang đẹp mê hồn. Thú vị nhất là vào gặp một vách đá phẳng như chiếc bảng đen lớp học, trên đó có hai dòng chữ viết bằng than ghi họ tên của hai người đã vào thám sát trước đó. Người thứ nhất vào năm 1953. Người thứ hai vào năm 1959. Anh tìm quanh, kiếm được một cục than củi ngay dưới vách đá, viết tiếp tên mình vào phía dưới hai dòng tên. Không biết đấy có phải là hòn than mà hai vị tiền nhân kia đã dùng để viết tên mình hay không? Rồi lại tiếp tục tiến vào sâu. Bỗng anh bạn Phú Thọ trượt chân đập chiếc đèn pin xuống đá vỡ tan bóng đèn. Một màu đen đặc quánh bao bọc lấy hai người. Tối kinh khủng. Tối tuyệt đối. Căng mắt ra cũng không cảm nhận được bất cứ hình thù gì phía trước. Mò mẫm, rờ rẫm, trượt ngã, loay hoay… vẫn không sao xác định được hướng ra. Hét hú khản giọng váng tai cũng không có tín hiệu gì đáp lại. Dễ đến 4-5 giờ sau đó, mới có người cầm đèn pin tìm vào. Thì ra lúc các anh vào hang có người biết, nhưng người đó hết phiên trực máy xuống núi ngủ vùi. Đến khi đơn vị báo động đi tìm hai người thì anh ta mới nhớ ra…

Rồi chuyện cậu Hoan dẻo mỏ, phiên trực nào hơi nhàn rỗi một chút là mở bài véo von tán tỉnh với mấy em ở hai đầu A69 và A72. Cũng vì A70 không có biên chế nữ như 2 trạm kia nên chẳng riêng gì Hoan mà nhiều cậu chàng ở đây cũng thèm tiếng con gái lắm. Bữa đó vô phúc cho Hoan, đang cợt nhả “em áp sát má vào tổ hợp cho anh hôn một cái” thì bị đại đội trưởng bắt quả tang. Xin nói thêm là mấy năm đầu, đại đội đóng cùng A70, sang chiến dịch Đường 9-Nam Lào mới chuyển vào An Bờ đóng cùng A72. Thế là cu cậu bị khép án vi phạm nội quy, phải chuyển từ tổ tổng đài sang tổ đường dây. Tội nghiệp lính mới đi sửa đường dây ban đêm chưa có kinh nghiệm, bị rắn bướm đớp cho một phát. Đang đêm, đơn vị phải cấp tốc cáng xuống trạm xá Khương Hà cách gần hai chục cây số. Mất gần một tháng điều trị mới được ra viện. Về trạm cái chân vẫn tím từng mảng, đại đội cho về lại tổ tổng đài trực máy. Nhưng từ đó cu cậu ngoan hẳn, đố dám hươu vượn dẻo mỏ như trước…

Và hôm nay chúng tôi đang tìm về cái hang đá của một thời A70…

Sau khi xem giấy giới thiệu và nghe chúng tôi trình bày công việc, Chủ tịch UBND xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, chậm rãi:

 

- Thế này các đồng chí ạ: Cái hang A70 mà cái đồng chí nói ấy, địa phương chúng tôi gọi là hang Thông Tin. Hang này năm kia đã được Nhà nước xếp hạng là Di tích lịch sử Quốc gia. Bằng công nhận di tích có rồi, nhưng xã chưa tổ chức đón nhận trọng thể được. Không phải vì không có tiền, mà vì đang vướng ba bốn anh quản lý. Cái hang đó thuộc Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng. Nay lại nằm trong khu dự án chăm sóc linh trưởng của một tổ chức quốc tế. Vào được đó khó khăn phức tạp lắm. Khó khăn phức tạp vì dốc cao đá dựng, cây cối um tùm, không có đường sá gì, không được chặt phát bất cứ thứ gì. Và khó khăn phức tạp vì phải được sự đồng ý của Ban giám đốc Vườn Quốc gia và Ban Quản lý dự án chăm sóc linh trưởng. Nhưng các đồng chí đi làm công việc quân sự, chắc là được. Để tôi cử anh Chí xã đội trưởng dẫn các đồng chí qua bên đó…

“Bên đó” tức là bên Ban giám đốc Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng, trụ sở đóng cách UBND xã chỉ vài cây số. Ban đầu, ông Vân Phó giám đốc bảo chúng tôi phải có giấy giới thiệu của Ban Quản lý di tích lịch sử tỉnh. Cái Ban ấy ở mãi tận Đồng Hới, cách đây hơn 50 cây số. Nhưng sau khi nghe tôi tự giới thiệu là con em quê nhà, lại nhắc tên mấy ông bạn học đang làm “sếp” ở Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch và Chi cục Kiểm lâm tỉnh, ông mới dịu giọng gọi điện sang Ban Quản lý dự án linh trưởng, đề nghị cử người dẫn chúng tôi lên “khảo sát quân sự” hang Thông Tin. Buông máy, ông nở nụ cười rất thiện chí: Phải nói như rứa họ mới linh động chớ!

Theo hướng tay xã đội trưởng Trần Văn Chí chỉ, thì cái hang ấy đã nằm ngay lưng ngọn núi đá trước mặt chúng tôi, nhưng anh Chí bảo về cơm nước đã, chiều mới lên được. Đang sốt ruột nên chúng tôi miễn cưỡng nghe lời, nhưng đến chiều mới rõ là ban sáng không thể lên kịp vì còn phải chờ một nhân viên kiểm lâm thạo lối dẫn lên, nếu xớ rớ vướng phải hàng rào bằng dây điện trần chạy pin mặt trời sẽ bị giật té ngửa. Khu bảo vệ và chăm sóc linh trưởng của quốc tế mà! Con đườngg ô tô dã chiến chạy sát chân núi xưa kia đã mất dấu trong lau sậy um tùm. Nền lán trại bộ đội cũng đã bị cỏ tranh khuất lấp. Đường lên cửa hang cứ nhằm phương vị thẳng đứng, vạch cây đỡ cành mà chui, cấm không được chặt bẻ thứ gì làm ảnh hưởng sinh thái của đám con cháu lão Tôn…

Mồ hôi đầm đìa. Chân tay đầy vết cào xước. Mồm mũi thi nhau thở… Sau gần một giờ bươn chải chúng tôi cũng tiếp cận được cửa hang. Bức tường bê tông chắn phía trước đề phòng hỏa tiễn vẫn còn nguyên vẹn. Phía sau là một vòm hang thênh thang hun hút. Hơi lạnh tỏa ra khiến mọi mệt nhọc nóng bức như biến đâu sạch. Tiến thêm một đoạn, hiện ra một nhánh rẽ bên phải cũng hun hút không kém nhánh chính. Vương vãi khắp nơi là những miếng nhựa hình chữ nhật màu đen. Anh Luận nói rằng đó là đáy một loại pin vuông của bộ đội thông tin thời chống Mỹ. Nhiều đoạn hang có những khối đá cuội được xếp chồng rất vuông vức, chắc ngày xưa là chỗ kê giường nằm của bộ đội. Chưa tìm thấy vách đá có dòng tên mà anh Trần Đăng Tân đã kể, nhưng tôi gặp rất nhiều những dòng chữ viết bằng than, bằng phấn, bằng đá non… trên các vách đá hai bên thành hang. Hầu hết là họ tên, quê quán, ngày tháng nhập ngũ…

Đứng giữa một không gian tuyệt mỹ và kỳ vĩ của tạo hóa, tận mắt chứng kiến những dấu tích hào hùng oanh liệt một thời, trong tôi trào lên những cảm xúc thật khó tả. Dưới kia, dòng sông Son lấp lánh nắng chiều. Con sông huyền thoại thời chống Mỹ giờ đây đang tấp nập những mái chèo chở du khách muôn phương ngược dòng lên chiêm ngưỡng những di sản thiên nhiên của nhân loại. Có ai biết chỗ chúng tôi đang đứng đây, cách bến đò du lịch chưa đầy một cây số, là một Di tích lịch sử Quốc gia và cũng là một thắng cảnh không kém phần hấp dẫn? Việc chấp hành nghiêm ngặt những yêu cầu chuyên môn của một dự án bảo vệ động vật hoang dã là cần thiết, nhưng có nhất thiết phải đặt dự án ở khu vực này không? Để phải hy sinh những giá trị tinh thần của một di tích lịch sử? Cũng như nếu hang Cơ Yếu (A72) ngày càng bị vùi lấp bởi cỏ cây, mưa nắng; tìm vào được di tích phải vượt qua bao trở ngại của thiên nhiên và do chính con người tạo ra… như hiện tại, thì làm sao bảo tồn và phát huy được những giá trị to lớn của một Di tích lịch sử Quốc gia?

Câu hỏi ấy cứ ám ảnh tôi suốt chặng đường trở về cho đến tận hôm nay, khi ngồi viết lại những dòng này…

Tháng 8-2011

Vạch rừng tìm di tích... (Kỳ 1)

Vạch rừng tìm di tích... (Kỳ 2)

Ghi chép của Mai Nam Thắng