II. Chuyện một cựu trợ lý... “cắm bản”! 

QĐND - Vẫn là xã đội trưởng Nguyễn Văn Thà dẫn chúng tôi đến thăm cựu trợ lý tham mưu trung đoàn Nguyễn Đức Lộc, một sĩ quan thông tin từng gắn bó với trạm cơ vụ A72 những năm chiến tranh ác liệt nhất, hiện đang sống cùng người vợ Vân Kiều ở thôn Cẩm Ly của xã Ngân Thủy này.

Vẫn là lời khẳng định nhẹ bẫng của Thà: Chỉ một quãng thôi! Vậy mà xe chạy vòng vèo gần trọn một vòng hồ trung thủy nông Cẩm Ly rộng mấy chục ki-lô-mét vuông, bỏ lại con đường cấp phối để rẽ vào đoạn đường đất lồi lõm sống trâu, lại qua một con suối hai bờ lên xuống bùn đất nhão nhoét nữa... cuối cùng chúng tôi mới đến được nhà bác Lộc!

Cựu chiến binh Nguyễn Đức Lộc đón chúng tôi sững sờ ngạc nhiên như không thể nào tin nổi: Tròn 35 năm kể từ ngày phục viên về sống ở cái xóm miền núi heo hút này, ông chưa được gặp lại một đồng đội nào của trung đoàn ngày ấy. Chàng trợ lý tham mưu đẹp trai, tháo vát, năng nổ ngày nào bây giờ đã là một ông lão 75 tuổi, râu tóc bạc phơ, phong thái lão thực như một tiên ông.  Quê ở Phú Yên, là thiếu sinh quân tập kết ra Bắc, học sinh miền Nam ở trường Đông Triều - Quảng Ninh cùng lớp với những Trà Giang, Lâm Tới và một số người sau này trở thành những cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước và quân đội. Sau 6 năm tu nghiệp thông tin ở nước ngoài, về nước năm 1966 là được biên chế luôn vào trung đoàn thông tin chiến lược 134. Có mặt tại trạm A72 ngay từ buổi đầu thành lập trạm và gắn bó cho đến ngày phục viên, năm 1976. Vợ ông, bà Hồ Thị Kim Đóa là người Vân Kiều bản địa, làn da chỉ hơi ngăm ngăm, người nhỏ nhắn nhẹ nhàng, hai hàm răng trắng vẫn đều tăm tắp khiến nụ cười của bà lão sáu mươi đẹp lạ lùng. Chả trách bốn mươi năm trước, chàng trợ lý tham mưu trung đoàn bị “sét đánh” ngay từ hôm đầu tiên gặp cô y tá Vân Kiều...

Vợ chồng cựu trợ lý tham mưu Nguyễn Đức Lộc say sưa kể về “một thời A72”. Ảnh: Thiết Thạch.

Mối tình thời chiến của ông bà nảy sinh trong những ngày vô cùng ác liệt. Chao ôi kể sao xiết những khó khăn, vất vả của những người lính giữa Trường Sơn nơi của ngõ chiến trường miền Nam. Ngày ấy núi An Bờ như là vật chuẩn cho máy bay Mỹ ném bom và phóng hỏa tiễn. Tọa độ mục tiêu chúng tính toán chính xác từ Hạm đội 7, từ U-ta-pao rồi, cứ đến đây căn đúng tọa độ là cắt bom, phóng đạn. Nhưng núi đá hiểm trở quá, hang đá kín đáo vững chắc quá, nên người và phương tiện không hề gì, chỉ khổ mấy anh đường dây phải đi khắc phục sự cố liên tục ngày đêm. Phần lớn bom đạn không nhằm vào được hang đá, vung vãi khắp thung lũng. Đấy, hai cái thung xơ xác sim mua và cỏ may ban sáng các chú đi qua, trước đây là hai bản Vân Kiều, có tên là bản Sung và bản Son. Bom đạn chà xát quá bà con phải sơ tán đi nơi khác, rồi định cư lâu dài không quay về nữa. Con đường vào trạm A72 trước đây ô tô tải chạy được, nay xói lở sạt lún cây cối um tùm mất hết dấu vết rồi...

Ông kể: Một lần đang có phiên liên lạc quan trọng từ Hà Nội vào thì máy bay nhào đến đánh phá. Đường dây bị đứt. Máy tải ba 12, máy VBO.12, máy MZ.132 đều tê liệt. Trong giây phút cực kỳ khẩn trương nghiêm trọng, tôi ra lệnh lấy đầu B của máy tuyến phụ lắp vào đầu B của máy tuyến chính, ưu tiên số một cho phiên liên lạc từ Tổng hành dinh. Gọi là tuyến phụ nhưng là tuyến chỉ huy của các binh chủng và trong hiệp đồng tác chiến thì anh nào cũng rất quan trọng. Tuyến liên lạc bị ngắt đột ngột, phát hiện ra tôi là “thủ phạm”, họ làm ầm lên, đòi đưa tôi ra tòa án binh. May mà cấp trên vào kiểm tra đối chiếu, thấy tôi xử lý như vậy là đúng, thế là thoát tội!

Bao nhiêu lần được tham gia phục vụ các chiến dịch và những trận đánh lớn, nhớ nhất là phiên trực bảo đảm thông tin phục vụ trận pháo kích sân bay Tà Cơn ngày 15-3-1971. Đây là một trận đánh lớn trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, đập tan cuộc hành quân Lam Sơn 719 của Mỹ - ngụy hòng chặt đứt đường Hồ Chí Minh, xoay chuyển chiến cuộc. Giao hội của phiên trực hôm đó có trạm A40 Hà Nội, A72 là thông tin đầu cuối của Bộ tư lệnh, KC100 kết nối với đài quan sát cách sân bay Tà Cơn độ 50 cây số và K77 kết nối với trận địa pháo 45 hạng nặng. Sở chỉ huy tiền phương của Bộ tư lệnh pháo binh do Tư lệnh Doãn Tuế trực tiếp chỉ huy, đóng ngay tại Trạm A72. Đến 12 giờ trưa, các máy lẻ cũng đã giao hội xong. Như vậy, từ Trung đoàn pháo binh 45 đến sân bay Tà Cơn chỉ độ 10 cây số mà thông tin phải bảo đảm thông suốt trên 200 cây số. Trước đến nay, đây là cuộc giao hội thông tin hữu tuyến phục vụ cho trận tập kích pháo binh có quy mô lớn và phức tạp nhất mà tôi được biết. Tất cả nín thở hồi hộp chờ đợi giờ G.

Đồng hồ điểm 13 giờ, 14 giờ, rồi 15 giờ... tin tức từ các hướng chuyển về tới tấp. Ở khu vực tổng đài, các lá báo đổ rào rào như mưa, 4 nhân viên tổng đài trở tay không kịp, mồ hôi ròng ròng. Một sĩ quan tác chiến vớ tờ báo gấp tư quạt cho nhân viên trực máy. ..

15 giờ 45 phút, đài quan sát báo địch sắp đổ quân. Trung đoàn 45 báo cáo đã sắn sàng!

16 giờ 30 phút, đài quan sát báo cáo tổng cộng có 36 trực thăng đang hạ cánh. Tư lệnh Doãn Tuế ra lệnh nổ súng!

16 giờ 40 phút, tín hiệu từ đài quan sát đến trung tâm bị mất. Trung đoàn trưởng pháo binh ra lệnh cứ phần tử cũ mà bắn. 10 phút sau, tín hiệu thông suốt. Sau này mới biết tổ 35 ở Vĩnh Linh bị B52 làm đứt 2 khoảng cột 100 mét. Hết loạt bom, anh em khôi phục ngay!

Đài quan sát tiếp tục báo cáo “hàng” đến nhiều. Tư lệnh pháo binh ra lệnh: Bắn mạnh vào! Tiếng trung đoàn trưởng pháo binh vang lên trong máy: Rõ!

Thông tin giao hội vẫn thông suốt. Cả trạm máy như sôi lên.

17 giờ 48 phút, đài quan sát báo cáo sơ bộ kết quả: Ta tiêu diệt 5 trực thăng, 3 phản lực, đánh cháy khu kho, đánh sập sở chỉ huy địch...

Tư lệnh Doãn Tuế ra lệnh: Ngừng bắn! Mọi người ôm nhau reo hò tưởng nổ tung hang đá. Vừa lúc ấy tổng đài báo cáo có máy gọi gặp trưởng ca và lãnh ca. Thì ra là thư ký của đồng chí Lê Trọng Tấn chuyển lời khen ngợi của Phái viên Bộ Quốc phòng bên cạnh Bộ tư lệnh mặt trận Trị Thiên khen ngợi ca trực thông tin. Một lát sau, Tư lệnh Thông tin, Tư lệnh Pháo binh, rồi Chính ủy Trung đoàn 134 trực tiếp gọi điện khen ngợi trạm A72. Các trạm bạn cũng gọi đến chúc mừng...

Mà này các chú có biết phụ trách ca trực hôm đó là ai không? Đinh Văn Sức! Không biết Đinh Văn Sức là ai à? Là tác giả bài “Tình ca A72” đấy. Để tôi đọc cho nghe nhé:

Bên này là núi An Bờ

Bên kia cò lả cánh mờ trong sương

Suối Di lấp lánh soi gương

Nhà sàn, bản cọ, con đường quanh quanh...

Hang Cơ Yếu dốc dựng thành

Thung xa gợn sóng cỏ tranh ngút ngàn

Chim kêu, vượn hót vang rừng

Ơ kìa, có cả chú chồn liệng bay

An Bờ, cảnh đẹp nơi đây

Dẫu bom đạn, vẫn ngất ngây tâm hồn...

Chúng tôi cùng vỗ tay tán thưởng nhiệt tình. Thơ hay mà người đọc thơ cũng tình cảm lắm. Bao năm rồi mà ông vẫn thuộc làu làu. Thế đủ biết thời trai trẻ ông cũng dạt dào lai láng lắm. Nhân đà vui, tôi lếu láo đòi ông kể chuyện ngày xưa làm sao mà tán đổ cô y tá bản? Ông Lộc cải chính: Y sĩ của trạm xá xã chứ! Dạo ấy tôi bị sốt rét đến liệt cả đầu gối, chống gậy đi không nổi. Mấy anh trong trạm nói chữa thuốc tây nhiều hại lắm, thôi khiêng ra trạm xá xã nhờ bà con chữa thuốc dân tộc cho, may ra đỡ. Bà Đóa nhà tôi đây chữa Đông - Tây y kết hợp, cả châm cứu nữa. Cái kim bà ấy to như cái nan hoa xe đạp mài nhọn, thế mà tôi không sợ bằng cái bát thuốc nấu bằng lá gì đắng đến quăn cả lưỡi, quăn cả ruột gan. Hơn một tuần thì tôi đi lại ăn uống được. Bà ấy cho thêm một bọc lá, bảo mang về đơn vị sắc uống tiếp. Tôi lành hẳn nhưng nhớ bà ấy cồn cào, vài ngày lại tìm cách ra trạm xá, khi thì vì việc này, khi thì vì việc khác. Cốt chỉ để được thấy bà ấy cười, nói với nhau đôi ba câu. Đơn vị có anh nào sốt rét, đau bụng, sái chân, trượt da... tôi đều đề nghị mang ra trạm xá để tôi được ra thăm và “làm việc” với y sĩ Hồ Thị Kim Đóa. Chú hỏi tôi đã đặt vấn đề tình yêu với bà ấy như thế nào à? Chịu, không nhớ nữa. Cứ tự nhiên như thế rồi thành chuyện chính thức, báo cáo tổ chức xin cưới. Đơn vị đồng ý, tổ chức đám cưới cho chúng tôi năm 1973, sau ngày ngừng bắn...

Bây giờ thì ông bà đã cháu nội cháu ngoại đề huề. 4 cô con gái và một cậu con trai đều học hành tử tế, thành đạt. Cô con gái út là giáo viên, đang theo chồng sang làm nghiên cứu sinh bên Pháp. Con cháu đều ở xa, hiện tại hai ông bà già thành “vợ chồng son”. Phụ cấp thương binh của ông mỗi tháng hơn triệu rưỡi. Lương hưu trí của bà được hai triệu rưỡi. Chừng đó thu nhập, cộng với vườn cây, ao cá, vạt rau túc tắc nuôi trồng được, cuộc sống cũng tạm ổn. Hiện nay bà vẫn làm Bí thư chi bộ thôn, ông thì đã xin thôi chức Hội trưởng Hội Cựu chiến binh xã vì mấy năm nay nặng tai khó nghe. Nhớ đơn vị, nhớ anh em đồng đội lắm nhưng ở đây xa xôi hẻo lánh không có cách gì liên lạc chắp nối được...

Dùng dằng bịn rịn mãi mới chia tay được với gia đình người cựu binh trung đoàn thông tin. Ông tiễn chúng tôi ra tận ngõ. Bắt tay lắc lắc mãi. Đi một đoạn, thấy ông vẫn đi theo, bảo tiễn các chú đoạn nữa. Đến con suối, thôi bác quay lại kẻo suối trơn. Bắt tay nhau lần nữa thật chặt. Qua suối, thấy ông vẫn lội theo, bảo tôi tiễn các chú ra chỗ đỗ ô tô. Lại bắt tay lắc lắc thật lâu. Chúng tôi chui vào ô tô, bác đứng bên ngoài vỗ nhè nhẹ vào cánh cửa, âu yếm thân thương như vỗ vai từng người vậy. Xe nổ máy trườn đi, ngoái nhìn qua ô kính phía sau vẫn thấy ông đứng trân trân vẫy vẫy. Nhà thơ Hoàng Vũ Thuật bần thần nhắc tôi: "Cậu viết bài, làm cách chi đưa được số điện thoại nhà bác là 052.2243827 để đồng đội cũ có thể liên lạc trò chuyện với bác. Báo đăng, nhớ gửi về thôn Cẩm Ly, xã Ngân Thủy, huyện Lệ thủy - Quảng Bình, biếu vợ chồng bác Nguyễn Đức Lộc nhé!".

(Còn nữa)

Vạch rừng tìm di tích... (Kỳ 1)

Ghi chép của MAI NAM THẮNG