QĐND Online - Hàng ngàn héc-ta rừng ngập mặn ở huyện Thái Thụy (Thái Bình) được ví như những “tường thành xanh” giúp cho cả chục nghìn hộ dân của các xã ven biển vững vàng trước thiên tai, gió bão. Để có được những tường thành vững chãi này, người dân nơi đây đã phải vật lộn với những cơn giận dữ của biển cả.

Đưa rừng xuống biển

 

Đi dọc triền đê biển xã Thụy Trường, có thể dễ dàng nhận thấy những cánh rừng ngăn sóng vươn dài “cánh tay” ra biển tới hàng cây số. Phía sau thân đê là hàng loạt ngôi nhà và cả trăm đầm nuôi trồng thủy sản của người dân.

 

Rừng ngập mặn Thụy Trường, Thái Thụy, Thái Bình

Là một trong những trong người đầu tiên tham gia phong trào toàn xã trồng rừng ngập mặn của Thụy Trường, ông Nguyễn Huy Sưu, dù đã ở cái tuổi xưa nay hiếm (75), nhưng vẫn vẹn nguyên ký ức về phong trào “đưa rừng xuống biển”. Ông kể: Trước đây, những hàng cây ngập mặn tại các xã ven biển huyện Thái Thụy thưa thớt lắm. Lúc đó, thiên tai, bão, gió và sóng biển hoành hành dữ dội khiến người dân trong xã, đặc biệt là những hộ sống bằng nghề biển, nuôi trồng thủy hải sản luôn cảm thấy bất an. Nhiều gia đình đã bị trắng tay sau cơn bão năm 1984. Cũng trong sự mất mát đó, người dân Thụy Trường bắt đầu nhận ra tác dụng của rừng ngập mặn- “tường thành xanh” để ngăn cơn giận dữ mỗi khi Mẹ Biển nổi giận. Tuy nhiên, đến năm 1992, phong trào toàn xã trồng rừng ngăn sóng mới thực sự bắt đầu và từ năm 1994 đến nay, với sự tài trợ của Đan Mạch thông qua Hội Chữ thập đỏ, những cánh rừng ở Thụy Trường lần lượt sinh sôi và phát triển xanh tươi.

Khi chưa có rừng, mỗi năm bờ đê bao bằng bê tông đầm nuôi thủy sản của chủ đầm Nguyễn Sĩ Toản, xóm 2, thôn Tư Chi Nam, bị vỡ 4-5 lần. Mỗi lần như vậy, thiệt hại về kinh tế rất lớn. Đã có lúc, anh Toản rơi vào cảnh trắng tay, tưởng chừng phải bỏ nghề. Thế nhưng, khi ngộ ra được tác dụng của rừng ngập mặn, anh đã tham gia trồng rừng, tạo “tường thành xanh” cho các đầm nuôi trồng thủy sản. 

Gian nan xây “tường thành xanh”

Theo ông Sưu, mặc dù số diện tích rừng cần trồng rất lớn, nhưng không phải ai cũng được nhận trồng thuê rừng. “Việc được nhận trồng rừng ngày đó  khắt khe lắm. Người được nhận phải am hiểu về quy luật tự nhiên của biển, về quá trình sinh trưởng, phát triển của giống sú, vẹt, bần. Bên cạnh đó, họ còn phải là những người tiêu biểu trong xã, nôm na là những người “ăn cơm nhà, vác tù và hàng tổng”, dám chấp nhận bỏ công sức vì mục đích gây rừng dẫu tiền công thấp”, ông Sưu cho biết.

Trồng cây gây rừng ở vùng bãi bồi ven biển không dễ dàng như nhiều người vẫn lầm tưởng. Ông Sưu bảo, yếu tố đầu tiên là phải dựa vào quy luật tự nhiên của biển để quyết định thời điểm đưa cây xuống biển, đó là con nước lên và con nước xuống. Nhưng để trồng được rừng, buộc phải đợi đến ngày con nước kiệt, tức là nước rút xuống trắng cả bãi bồi.  

“Ngày con nước xuống kiệt thì thuận cho việc trồng rừng không bị sóng cuốn, nhưng đổi lại, sức khỏe của người trồng rừng bị hao mòn. Những ngày đó thường nắng gắt, gió biển nóng như lửa nung. Chỉ thanh niên mới đủ sức chịu dầm nắng gió đốt cháy da thịt cả ngày. Nếu cứ làm liều để lấy thành tích, không cẩn thận theo dõi thời tiết, con nước lên xuống, thì chỉ cần một trận sóng lớn, nước dâng, biển động, bão tố ập vào sẽ cuốn sạch các cây con mới trồng”, ông Sưu nhớ lại.  

Chính những người như ông Sưu, anh Toản đã góp phần tạo nên “tường thành xanh” ngăn triều, chắn bão. Theo đó, đời sống nhân dân dần được cải thiện. Ông Đỗ Đức Nam, Phó chủ tịch UBND xã Thụy Trường, cho biết: Thụy Trường là một xã thuần nông với hơn một vạn dân nhưng chỉ có khoảng 300 héc-ta đất trồng lúa. Nay nhờ khu rừng ngập mặn, hơn 300 héc-ta mặt nước ao, hồ đã được mở rộng để nuôi trồng thủy, hải sản. Đây chính là hướng chính để phát triển kinh tế-xã hội của xã.

Thủy sản- nguồn lợi từ rừng ngập mặn

Hiện toàn xã Thụy Trường có 1.500 héc-ta rừng ngăn sóng biển. Tính trung bình mỗi năm có khoảng 1.300 người tham gia trồng rừng. “Phải nói thật là người được nhận trồng rừng rất vất cả. Họ phải bám biển, “bán” sức khỏe mới trồng được cây; phải vật lộn với sóng biển mới giữ được rừng. Dù số tiền thuê ít ỏi, nhưng người dân Thụy Trường vẫn nhiệt tình tham gia với mong muốn diện tích rừng ngày một dày thêm để ngăn sóng biển, giảm nhẹ thiệt hại từ thiên tai”, ông Nam cho hay.  

“Chăm” rừng như bà mẹ đầu thai kỳ

Câu chuyện trồng rừng ngăn sóng được ông Đào Đức Viện, Trưởng phòng NN&PTNT huyện Thái Thụy ví như một cung nhạc với nhiều nốt thăng trầm suốt một chặng đường dài. Theo ông Viện, trong những năm đầu trồng rừng, tỷ lệ rừng trồng có hiệu quả, còn sống và sinh trưởng được trên bãi bồi thường chỉ đạt khoảng 20%. Nếu trồng 100 héc-ta rừng thì sóng biển và sự khắc nghiệt của biển lấy đi 80 héc-ta còn 20 héc-ta kia là cả quá trình vật lộn với sóng biển mới giữ nổi. Để có hơn 3.885 héc-ta rừng ngập mặn trải dọc 27km đê biển trên địa bàn huyện, theo ông Viện, các cơ quan chuyên môn và người dân trực tiếp trồng rừng đã phải tìm tòi, đổi mới phương pháp, kể cả kỹ thuật cây giống và cách trồng.

Ông Viện cho hay: “Nếu cứ cắm cây xuống bãi cát thì cây chưa có rễ đã bị sóng biển cuốn đi. Vì vậy, cách làm của huyện là ươm cây khoảng 2 tuổi, sau đó đánh cả bồng đất để đưa vào rọ tre. Khi đưa xuống biển, dùng một cọc nhỏ cắm xuống bãi để cố định rọ tre để cây khỏi bị sóng cuốn. Vì thế, mỗi khi người dân trồng rừng, cán bộ kỹ thuật của huyện luôn có mặt để nghiệm thu. Có những khi cả dân và cán bộ kỹ thuật nghiệm thu nhận rừng trồng cách bờ tới cả cây số, bất chợt thủy triều đổi dòng, nước lên nhanh, không kịp vào bờ. Dù hiểm nguy đến tính mạng nhưng người dân và cán bộ kỹ thuật vẫn một lòng trồng rừng và giờ đây, huyện vẫn tự hào là địa phương có mô hình trồng rừng ngăn sóng biển hiệu quả”.

Để giữ được rừng trồng, ba tháng đầu tiên là giai đoạn rất quan trọng. Ông Phạm Văn Tân, cán bộ phòng NN&PTNT huyện Thái Thụy bảo: “Đây là ba tháng giúp cho rễ các loại cây như cây vẹt, sú, bần bứt qua bồng đất để ăn sâu xuống bãi biển. Ba tháng này không khác gì ba tháng đầu thai kỳ của người mẹ bởi nếu từng rọ cây không được cố định chặt vào cọc thì cây không đủ sức kháng cự trước sóng biển. Cây mất thì người trồng mất công, cơ quan quản lý mất vốn và cuối cùng là hiệu quả ngăn sóng, giảm nhẹ thiên tai không đạt được”.

Trong rừng ngập mặn, những cây bần, sú vẹt ken dày, nương tựa vào nhau để góp nhặt những hạt phù sa nhỏ nhoi ngày một dày thêm, tạo nên sự sinh tồn. Mỗi cây bần, sú vẹt không chỉ góp phần tạo thành rừng- “tường thành xanh” che chở cho người Thụy Trường trước mỗi cơn thịnh nộ của Mẹ Biển mà còn gọi cá, tôm, thủy sản, chim chóc về đây trú ngụ.

Theo khảo sát của các nhà khoa học, tại rừng ngập mặn ở Thái Bình có 137 loài động vật đang sinh sống, trong đó có 123 loài chim với các loài: cò thìa, mòng bể, bồ nây chân xám, cò quăm đầu đen. Ngoài ra, tại đây còn có các thảm thực vật phong phú hình thành vùng rừng sinh thái bảo tồn tính đa đạng sinh học.

Chỉ tay về phía hàng cây sú vẹt cao chừng 3 mét trong rừng, ông Tân cho biết, phải mất cả hàng chục năm trời, cây sú vẹt mới phát triển được chừng đó. Thế mới thấy, người dân nơi đây đã phải đổ biết bao công sức mới tạo được “tường thành xanh” vững chãi.  

Thoát nghèo nhờ rừng

Vừa đi cào vẹm xanh về, chị Đỗ Thị Mong, ở xóm 13, thôn Lỗ Trường, bảo cùng với sự dày thêm và dài rộng ra của cánh rừng ngập mặn Thụy Trường, là sự xuất hiện ngày càng chim chóc và các nguồn thủy sản khác như tôm, cua, ngao, sò, ốc, vẹm xanh. Trung bình mỗi ngày chị kiếm được 100.000-150.000 đồng nhờ cào vẹm, bắt còng.

“Rừng ngập mặn không chỉ giúp thủy sản ngày một nhiều hơn mà cây lúa cũng được hưởng lợi đấy!, chị Mong vui vẻ nói. Theo chị giải thích, rừng ngập mặn góp phần giữ đê, “mỗi năm người dân chúng tôi trồng hai vụ lúa ăn chắc” nên cây lúa được hưởng lợi.

Còn với anh Nguyễn Sĩ Toản, từ khi tham gia trồng rừng, đầm nuôi thủy sản của anh được bảo vệ vững chắc. Bây giờ mỗi năm gia đình anh thu được năm đến bảy trăm triệu. Anh tâm sự: Rừng không chỉ bảo vệ tính mạnh của chúng tôi trước thiên tai bão lũ mà rừng còn góp phần đem lại cuộc sống no ấm cho gia đình tôi và người dân Thụy Trường. 

Với ông Sưu, anh Toản và người dân Thụy Trường, có thể họ chưa hiểu đầy đủ về khái niệm, tác động của biến đổi khí hậu tới đời sống của con người nhưng họ hiểu rằng, trồng rừng góp phần ngăn cơn giận dữ của Mẹ Biển. Và hơn hết, khu rừng ngập mặn đã trở thành “nhịp cầu nối” người dân Thụy Trường với những “món quà” từ Mẹ Biển để cuộc sống của họ ấm no, bình yên hơn.

Ghi chép của NGUYỄN KIỂM-XUÂN LONG