QĐND Online - Điềm đạm, chân thành và dung dị, đó là ấn tượng đầu tiên của tôi về ông trong cuộc hội ngộ của các cựu chiến binh về thăm lại chiến trường xưa. Trong ký ức miên man của những người lính, hẳn ít ai ngờ, pháo thủ Đặng Văn Phong năm nào, nay đã trở thành thầy giáo của những lớp học không chuyên tại số nhà 2, ngõ 4, đường Phan Tất Thông, (TP Vinh - Nghệ An). Điều đặc biệt là gần 20 năm qua, người thầy ấy không bao giờ nhận quà hay lấy bất cứ một đồng thù lao nào từ các học trò của mình.
Ngày còn ở chiến trường
Sinh ra và lớn lên bên dòng sông Lam hiền hoà, thơ mộng, cũng như bao thanh niên khác, nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc, năm 1971, ông Phong hăng hái lên đường nhập ngũ. Mới 17 tuổi, nặng 38 kg, để được nhập ngũ, ông phải nhờ bạn cho thêm 2 viên gạch để vừa đủ 42 kg. Chiến trường Tây Nguyên khói lửa, nơi rừng thiêng nước độc, lần đầu tiên trong đời ông hiểu thế nào là cảm giác xa mẹ, xa quê hương. Những ngày đầu ông được làm nhiệm vụ liên lạc đại đội, do ít tuổi nhưng ngoan ngoãn, hiền lành nên ông được rất nhiều đồng đội và thủ trưởng yêu mến, đặt cho cái tên là “cậu bé choắt”
 |
|
Ông Phong đang tìm lại những bức ảnh khi trở lại thăm chiến trường Tây Nguyên.
|
Thế rồi anh lính trẻ với những buổi đầu chỉ biết khóc khi vào rừng hái rau cuối cùng đã trở thành pháo thủ dũng cảm và tài năng của Lữ đoàn xe tăng 273. Trong khói lửa, đạn bom và ánh sáng của lá cờ đỏ sao vàng, ngày 30-4 lịch sử, ông vẫn xót xa lời trăng trối của một người bạn: “Tôi chết mất Quê ơi. Quê ơi, tôi không sống được nữa, Quê nhớ về chăm sóc con giúp tôi”, ( Quê là tên gọi của những người lính cùng chiến đấu, cùng quê hương mà không cần xưng danh – những người lính thường trìu mến gọi nhau như vậy). Đó là Lê Văn Vỹ, quê ở Thạch Hà ( Thạch Châu - Hà Tĩnh).
Đau đáu với nỗi chia ly của những người lính, ông Phong luôn ấp ủ trong mình tâm nguyện mong đến ngày hoà bình để được về tìm lại đồng đội. Đến năm 1979, ông mới có dịp về Hà Tĩnh tìm lại vợ con anh Vỹ, lúc ấy con gái anh đã tròn 4 tuổi. Chiến tranh biên giới nổ ra, anh trở thành Đại đội trưởng.
Năm 1983, ông Phong phục viên trở về với quân hàm Đại uý và thi đỗ vào Đại học Tài chính. Nhưng có lẽ chất lính đã ngấm sâu vào tâm hồn người trai trẻ ấy, những cám dỗ và bon chen đời thường dường như không níu lại được bước chân ông.
Sống, chiến đấu và hi sinh, đó là niềm tự hào mà ông Phong vẫn luôn nhắc đến khi kể về đồng đội. Mỗi khi nhắc đến họ, tim ông như thắt lại, ông cảm giác như mình còn mắc một món nợ bởi những ân tình quá đỗi sắc son, sâu nặng. Cũng bởi lẽ đó, bao năm qua ông vẫn ngày đêm miệt mài đi tìm hài cốt cho đồng đội. Hiện trong tay ông có tới 350 danh sách phần mộ của các liệt sĩ và 400 cựu chiến binh Lữ đoàn 273 Tăng thiết giáp.
Đầu tháng 6, trong một lần vào viện tại Thành phố Vinh khám thì ông bị bác sỹ giữ lại để phẫu thuật động mạch vành. Nhưng vì đã hứa đưa gia đình liệt sĩ Hứa Văn Phát, quê ở Tràng Định – Lạng sơn vào nghĩa trang TP Hồ Chí Minh nên ông đành hoãn với các bác sĩ, mặc cho họ can ngăn “Ngày tìm được phần mộ cho bạn bác suýt nữa chính là ngày giỗ của bác”. Thế rồi chẳng biết sức mạnh nào đã giúp ông vượt hàng nghìn cây số, người lính luôn nói cười rổn rảng ấy đã trở về trong tình trạng sức khoẻ dần bình phục và kịp vào viện phẫu thuật.
 |
|
Hạnh phúc khi gặp lại đồng đội.
|
Lớp học “bác Phong”
Trở về quê hương, cậu bé Phong ngày nào vẫn tự hào khi được khoác lên mình bộ áo lính, nay trở thành một thầy giáo. Năm 1993, khi đó con gái ông đang là học sinh lớp 6, một lần kiểm tra kiến thức của con, ông phát hiện cô bé thiếu quá nhiều kiến thức cơ bản.
Ông thấy buồn vì trước đây mình đã quá tin vào bảng thành tích của con. Họp phụ huynh, ông đã đứng lên phê bình thẳng thắn căn bệnh thành tích trong nhà trường: “Tại sao nhiều em học sinh khá giỏi, thậm chí là xuất sắc nhưng kiến thức bên trong lại bị hổng quá nhiều?” Ý kiến của ông đã được cán bộ nhà trường và nhiều phụ huynh học sinh tán thành nhưng sau đó vợ ông là giáo viên của trường cũng bị khiển trách.
Cũng từ đó, quá trình củng cố lại kiến thức cho con được bắt đầu. Đầu tiên là ông tìm đọc nhiều loại sách, học hỏi thêm các giảng viên trong nhiều trường đại học, có khi ông miệt mài thức đến tận 2, 3 giờ đêm để đọc sách. Thấy con gái ông Phong học ngày một khá hơn, nhiều hàng xóm đã đem con qua nhờ “bác Phong” kèm cặp, lúc đầu là 2, 3 em, dần rồi lớp học ngày càng trở lên đông đúc hơn, có khi lên tới 20 em.
Thời gian đầu, đồ dùng dạy học chỉ là một tấm bảng bằng gỗ ép, sau vì bảng bị bong tróc không dùng được nên “bác Phong” đã dựng một tấm bảng bằng xi măng ở ngoài sân có mái che để dạy học cho các em. Kể từ đó, rất nhiều học trò tại Thành phố Vinh, Nghệ An, từ lớp 6 cho đến những học sinh chuyên do “bác Phong” dìu dắt đã có rất nhiều em đỗ đại học, cao đẳng. “Dạy dỗ bọn trẻ là niềm vui của tôi, tôi nghĩ mình đã làm đúng và làm một việc có ích”, ông Phong tâm sự.
Có một điều là ông không cho phép các học trò gọi mình là thầy và cũng không bao giờ lấy bất cứ một đồng thù lao nào từ bọn trẻ. “Sau khi thi đỗ vào Đại học Kinh tế Đà Nẵng, tôi có lòng thành đến cám ơn bác Phong nhưng tối hôm đó, vợ chồng bác đã tìm đến tận nhà tôi để trả lại”, Lê Minh Tú, hiện đang công tác tại Sở Tài chính Nghệ An cho biết.
Thông cảm với nỗi cực nhọc của chồng nên bà Liên cũng chẳng mấy phàn nàn: “Biết là chồng vất vả nhưng tôi thấy vui vì ông đã sống và làm được điều ông ấy muốn”.
“Hiện nay, Phong đang phải đối mặt với bệnh nghẽn động mạch vành, có thể ông ấy sẽ chẳng còn sống được bao lâu nữa, nhiều lúc những con đau dữ dội tưởng chừng như Phong sắp phải lìa xa chúng tôi...”, bà Trần Hồng Dung, Phó chủ tịch quỹ Mãi mãi tuổi hai mươi, đồng đội ông Phong tâm sự. Mặc dù giấu vợ con và một mình nén đi nỗi đau bệnh tật, nhưng tôi không hiểu sức mạnh nào đã làm trái tim ông bật lên một sức sống mạnh mẽ. Đi tìm đồng đội, hát, làm thơ và miệt mài sắp cho đám học trò những hành trang cần thiết để các em vững bước vào cuộc đời. Có thể đó là món quà vô giá mà người lính ấy muốn dành tặng cho chính cuộc sống này.
Bài, ảnh: Kim Thoa