Tàu Trường Sa 20 ra khơi.

Trong nắng gió Trường Sa càng nổi bật hơn hình ảnh đảo nổi, đảo chìm và có cả “hòn đảo” lênh đênh trên biển. Ở nơi đó có những con người rắn rỏi, nghị lực đứng vững nơi đầu sóng ngọn gió.

I - “Người hùng” cứu hộ trên biển

Trời về đêm, khi vừa ra khỏi cửa vịnh Cam Ranh, những con sóng ào ạt vỗ, tàu Trường Sa 20 xé sóng hướng về quần đảo của Trường Sa. Kể từ khi hạ thủy, Trường Sa 20 đã thực hiện hàng chục hành trình như vậy, để trở thành một trong những cầu nối đất liền với đảo xa.

Cầu nối giữa đất liền và hải đảo

3 giờ sáng, tiếng chuông báo hiệu bỗng vang lên. Tất cả thuyền viên trên tàu ngay lập tức vào vị trí của mình. Xa xa lờ mờ hình ảnh ngọn hải đăng bên cạnh đảo chìm. Tàu đã đến điểm đảo đầu tiên. Dù đã rất quen với những hành trình trên biển, nhưng khi đến với mỗi điểm đảo của Trường Sa, mọi thành viên trong thủy thủ đoàn đều phấn chấn hơn. “Mỗi chuyến đi là niềm vinh dự, là mang niềm vui đến cho mọi người, bởi vì anh em ở Trường Sa đã ngóng tin đất liền từ khi tàu rời cảng”-Thiếu tá, Thuyền trưởng Vũ Văn Vui tâm sự. Đã có thâm niên 18 năm đi biển, theo Thuyền trưởng Vui, những chuyến đi vào dịp cuối năm và vào tháng 7, tháng 8 là để lại nhiều kỷ niệm và cũng là hành trình khó khăn, thường xuyên gặp thời tiết xấu nhất trong năm. Có mặt trong chuyến đi vào những ngày cuối tháng 12-2008, tôi đã phần nào cảm nhận được vất vả của người đi biển. Gió đông bắc thổi mạnh cấp 7, cấp 8, giật trên cấp 8, biển động mạnh. Thân tàu lắc ngang 10-15 độ. Đối với những người lần đầu tiên ra biển như nhóm phóng viên trong đoàn thì không bị say sóng đã là may mắn lắm rồi. Trong khi đó những thủy thủ của tàu Trường Sa 20 không ngại phải đối mặt trực diện với những ngọn sóng cao hơn 10m. Trong hành trình lần này, chúng tôi đã chứng kiến những lần tàu sử dụng xuồng nhỏ vào đảo đón người trong lúc biển đang động mạnh. Gió biển có những lúc như đẩy lùi chiếc xuồng nhỏ, những đợt sóng cao như muốn nuốt chửng thân xuồng. Vậy mà chỉ trong 3 tiếng buổi sáng, hàng chục chuyến xuồng đã qua lại để đón cán bộ chiến sĩ ở đảo về đất liền.

Nói về những lần đi xuồng vào đảo, Trung úy Trần Văn Thắng, một trong những người dày dạn kinh nghiệm lái xuồng của tàu Trường Sa 20, vẫn còn nhớ rõ nhiều tình huống nguy hiểm mà anh đối diện. “Đó là những lần xuồng sắp lật do bị nhiều đợt sóng gối nhau đánh ngang thân, hay là lần tàu mắc vào bãi cạn, lúc đó phải nhanh chóng quay mũi xuồng. Để cứu xuồng có khi phải thả bớt hàng xuống biển tránh bãi cạn”. Còn đối với Thuyền trưởng Vũ Văn Vui, lần thoát hiểm anh vẫn còn nhớ như in đó là khi xuồng bị hỏng trên đường rời đảo về tàu. “Chân vịt của xuồng bị tung ra, chúng tôi phải neo lại trên bãi cạn rồi lặn xuống mò chân vịt. Xuồng bị kẹt cứng mà không có cách nào để liên lạc với tàu hay đảo, chỉ còn cách nhấp nháy đèn. May mắn là đã tìm thấy chân vịt, lúc xuồng về đến tàu cũng đã nửa đêm”, Thuyền trưởng Vui nhớ lại.

Chuyến đi lần này, tàu Trường Sa 20 đến nhiều đảo, điểm đảo, nhưng ấn tượng hơn cả là vào đảo An Bang, vốn được xem là nơi sóng gió nhất của Trường Sa. Đảo An Bang không có bãi san hô trải dài như nhiều đảo khác. Bãi cạn của đảo dốc như hình cây nấm, vì thế tàu rất khó thả neo. Sóng ở An Bang, vỗ vào bờ liên tục, từ mọi hướng, do không có bãi cạn nên những đợt sóng cứ gối đầu nhau cập bờ mà không chịu vật cản nào lại càng dữ dội hơn. “Đi xuồng vào đảo An Bang, nếu không cảnh giác, sóng có thể đánh vào từ bất kỳ hướng nào, xuồng có thể bị lật. Đã có lần sóng đánh cho xuồng lao thẳng lên bãi cát, rất may là không có ai bị nguy hiểm”, Chuẩn úy Hoàng Văn Tùng, người thường xuyên có mặt trên những chuyến xuồng vào An Bang chia sẻ.

Ở An Bang còn có một đội xung kích, họ là những người lao mình ra ngọn sóng để nắm dây xuồng, khi đã nắm được dây, sức của hàng chục người vừa kéo, vừa giữ cho xuồng không bị đánh bật đi. “Chính vì vậy mà muốn vào An Bang phải lựa theo thời tiết, khi thời tiết thuận, thì dù ở đâu cũng phải tức tốc vào An Bang trước”, thuyền trưởng Vũ Văn Vui khẳng định. Và thời tiết thật đã chiều lòng người, những chuyến xuống vào, ra đảo An Bang trong hành trình này đều xuôi chèo, mát mái. Hành trình đến với Trường Sa của con tàu mang tên chính quần đảo đầy ắp những kỷ niệm. Vượt qua sóng gió biển khơi, những người anh em, những người đồng chí của đất liền và đảo xa gặp lại nhau. Đó là niềm hạnh phúc, là quà tặng lớn nhất mà thủy thủ đoàn nhận được sau bao ngày trên biển.

Cứu dân trong bão tố

Kíp lái tàu đang chuẩn bị buông neo khi tàu tới đảo

Tàu Trường Sa 20, thuộc hải đội 411, Vùng D Hải quân còn được biết đến như một “người hùng” với nhiều chuyến cứu hộ trong dông bão. Chia sẻ về những chuyến đi đặc biệt đó, Đại úy Nguyễn Văn Tuấn, Chính trị viên tàu Trường Sa 20 nhớ lại: “Tôi đã được tham gia những chuyến cứu hộ đặc biệt từ khi về tàu, đặc biệt bởi mức độ ác liệt của cơn bão, hoàn cảnh sống sót của ngư dân mắc nạn và cũng bởi những mất mát thương tâm”. Rất nhiều thuyền viên trên tàu còn nhớ rõ lần đi cứu hộ khi cơn bão Chan Chu vào Biển Đông. Đó là vào tháng 5-2006, tàu đang ở đảo Sinh Tồn Đông thì nhận được lệnh khẩn cấp lên phía bắc làm nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn. Tàu chỉ kịp qua đảo Song Tử Tây đón một tổ quân y, nhận thêm vật dụng thuốc men và lên đường ngay trong ngày. Khi lên đến phía bắc, thủy thủ đoàn đã phát hiện 5 tàu đánh cá của ngư dân bị mắc nạn, tổng số thuyền viên có 65 người. Trong đó, có nhiều người từ những chiếc tàu đã bị sóng đánh tan, một người đã chết, 13 người bị thương nặng. Tất cả các tàu đều đã cạn kiệt nước uống, lương thực và hỏng nặng. “Cảnh tượng mà tôi còn nhớ rõ đó là khi nhìn thấy một nhóm người bám trên một chiếc phao chênh vênh giữa biển, họ là những ngư dân thoát được sau khi tàu bị bão đánh chìm. Một người trong số họ đã chết. Một người đã vào nanh cá mập. Những người còn bám được trên phao đã xác định không còn khả năng sống sót. Đến khi được tàu Trường Sa 20 đón lên, nhiều người trong số nạn nhân vẫn chưa ổn định được tâm lý, có người còn không nhớ được tên họ, thân nhân, gia đình”. Giọng của Đại úy Nguyễn Anh Tuấn vẫn còn xúc động khi nghĩ về cảnh tượng đó. Ngay sau đó, tàu đã cung cấp nước uống, lương thực cho ngư dân, giúp sửa chữa và cung cấp nhiên liệu cho các tàu đánh cá bị hỏng, lai dắt, kéo những tàu không còn sử dụng được về cảng Cổ Lũy, Quảng Ngãi. “Lúc đến cầu cảng, rất đông thân nhân của những người đi biển đã chờ từ trước, ai cũng nước mắt sụt sùi. Người khóc vì đau buồn, không tìm thấy người thân, người vui mừng quá cũng khóc. Chúng tôi thì được bà con cảm ơn, bắt tay mãi không thôi”, Đại úy Nguyễn Anh Tuấn bùi ngùi khi nhớ lại một kỷ niệm khó quên.

Những chuyến cứu hộ trên biển có thể coi là hành trình đầy hiểm nguy và gian khó bậc nhất mà tàu Trường Sa 20 đã trải qua. Đã có lúc tàu phải chống chọi với bão cấp 11, gió cấp 12, hay phải chạy trên biển khi mà cơn bão đang ở ngay phía sau. Đại úy Nguyễn Quang Huy, Phó thuyền trưởng 1 tàu Trường Sa 20 kể về một lần chạy bão cấp 12: “Tháng 7-2007, tàu đang ở đảo Sinh Tồn sau 110 ngày trên biển thì nhận lệnh chạy tránh bão. Cơn bão đi theo hướng tây nam với tốc độ rất nhanh. Tàu không thể quay đầu được mà chỉ nhằm hướng nam thẳng tiến, trong khi bão ở ngay phía sau. Con tàu chao đảo đến mức chỉ nhìn thấy mặt biển mà không thấy trời. Chạy trên biển mất một ngày tàu mới đến đảo Tốc Tan và tránh bão ở đó”. Trong nguy hiểm cận kề nhưng những thuyền viên của tàu luôn xác định: “sẵn sàng nhận nhiệm vụ khi có lệnh”, nên không kể thời gian, quan trọng nhất là cứu người, hơn nữa, làm công tác cứu hộ còn là “tình cảm của con người với con người”, như Thuyền trưởng Vũ Văn Vui vẫn nói.

Sau những hành trình dài trên biển, tàu lại cập cảng. Những người lính từ đảo xa được gặp lại gia đình, bạn bè, còn những thủy thủ của tàu Trường Sa 20 lại tiếp tục chuẩn bị cho những chuyến đi tiếp theo. Trong số các thuyền viên của tàu, cũng có người một vài năm mới về với gia đình một lần, có người đang nghỉ phép, khi có lệnh là lên đường ngay. Với họ, câu nói “tàu là nhà, biển cả là quê hương” càng khắc sâu hơn cùng với những hành trình không ngừng nghỉ.

Bài và ảnh: ĐỖ MẠNH HƯNG

(Còn tiếp) Kỳ sau: Hoài bão tuổi trẻ