QĐND - Năm Nhâm Thìn này, cánh lính nhập ngũ tháng 4 năm 1970, hầu hết đã đến tuổi lục tuần. Hẹn hò mãi, cuối cùng cũng tổ chức được một cuộc hành quân về nguồn. Đồng đội ở quê, nhiều người đã trở thành ông nội, ông ngoại, phần lớn đã nghỉ hưu, vui thú điền viên. Tôi và Dán bay từ miền Nam ra. Ai cũng háo hức, chờ đợi. Ngồi trên xe về xã Yên Quang, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, nơi cách đây hơn 40 năm chúng tôi huấn luyện bổ sung cho chiến trường, mỗi người có hồi ức riêng. Nhưng có lẽ, điểm chung nhất, ai cũng nghĩ đến, đó là những người đã khuất. Những cái tên thân yêu như: Vô, Nùng, Vân… từ mảnh đất này ra đi. Họ đã nằm lại chiến trường, không bao giờ trở lại Yên Quang này nữa.

Cuộc hội ngộ bất ngờ

Kể ra lúc đầu cũng hơi khó chịu. Nguyễn Trường Cổn, một trong những người đứng ra tổ chức chuyến đi thông báo rằng, các đồng chí địa phương bảo là, cần có giấy giới thiệu, sẽ xếp lịch tiếp đoàn. Phản ứng khác nhau. Cựu chiến binh (CCB) về thăm căn cứ cũ mà làm gì phải giấy giới thiệu. Xưa quá rồi... Tôi thì lại nghĩ khác. Chuyện nhỏ. Điều đáng quan tâm nhất là được đặt chân đến vùng đất đầy kỷ niệm mà cách đây gần nửa thế kỷ mình đã từng gắn bó. Sẽ được gặp lại những người đã cưu mang, che chở mình trước khi vào chiến trường. Những băn khoăn ấy cũng qua mau, khi chúng tôi có mặt ở trụ sở UBND xã Yên Quang. Biết chúng tôi là những CCB thăm lại căn cứ cũ, các anh trong Thường trực Đảng ủy và UBND đều xếp công việc tiếp đón. Chủ tịch UBND xã tên là Nhất - Quách Văn Nhất, một người còn trẻ, có dáng cao cao, trán hói chăm chú lắng nghe chúng tôi và phân công ngay trưởng công an xã hướng dẫn đoàn.

Đường về xã Yên Quang (Nho Quan). Ảnh:Baoninhbinh.org.vn.

Đã mấy chục năm rồi, Yên Quang vẫn còn nghèo lắm. Cảnh cũ người xưa. Cảnh cũ thì vẫn còn đây, còn người xưa thì không biết ai còn, ai mất. Chúng tôi chia thành từng nhóm đến thăm và tặng quà các gia đình đã từng cưu mang mình. Đây là nhà cô Nguyệt, cô Hoa, nơi trung đội trưởng Dũng ở. Đây là nhà bác Ân, nơi chính trị viên Hào và đại đội trưởng Kim trú đóng... Lần theo bụi tre gai, ríu rít tiếng chim, tôi tìm đến nhà ông bà Túy. Nhà cửa im lìm. Trưởng công an xã cho biết, các cụ đã mất từ lâu. Ngôi nhà cũ được sửa lại, tuy có khá hơn, nhưng vẫn còn đơn sơ lắm. Lòng tôi nao nao. Hơn 40 năm trước, khi còn là chàng trai vừa bước vào tuổi 18, tôi đã có những ngày sống thật ấm áp ở đây. Dân thì nghèo. Bộ đội của dân nên cũng nghèo theo. Biết chúng tôi luyện tập vất vả, lại đang sức ăn, sức ngủ, ông bà Túy cũng như bà con làng Mô, làng Mống, làng Cối (Yên Quang) luôn tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi. Tôi nhớ mãi, mỗi lần đi thao trường hay những đêm hành quân dã ngoại về, được thưởng thức củ khoai sọ làng Mô mà theo cách nói của chúng tôi ngày ấy là "ngon nhất thế giới" thì hết biết. Cả những bình nước nữa. Nước trong bình gốm ủ kín, không biết được nấu bằng thứ lá cây gì mà uống vào lúc đầu nghe đắng ở đầu lưỡi, sau thấy ngọt ở cổ họng và thơm thơm vị mật ong. Mấy tháng vượt Trường Sơn, tôi vẫn thấy hương vị khoai sọ và nước lá ấy phảng phất bên mình.

Cô Hoa, cô Nguyệt là hai chị em sinh đôi. Ngày ấy hai cô như những bông hoa nhuận sắc nơi bản làng heo hút đầu đường Trường Sơn này. Cánh lính trẻ không ít chàng vụng thương, trộm nhớ. Câu chuyện về hai bông hoa này cứ được thêu dệt như cổ tích sau mỗi chặng hành quân mệt nhọc. Anh nào cũng nghĩ, một trong hai cô ấy để ý đến mình… Mẹ của Nguyệt-Hoa năm nay đã gần 90 tuổi, nhưng vẫn còn minh mẫn lắm. Bà không rơi nước mắt khi kể về người con gái vừa đi xa mà lại khóc tức tưởi khi chúng tôi nhắc đến các đồng đội từ nơi đây ra đi không bao giờ về nữa. "Tội nghiệp thằng Nùng, thằng Vô và mấy đứa nữa. Đứa nào cũng hiền lành, dễ thương...".

Cái làng Mô nho nhỏ nằm tựa lưng vào dãy núi được coi là đầu đường Trường Sơn này, đã có biết bao nhiêu Bộ đội Cụ Hồ đến rồi đi và có biết bao người không bao giờ trở lại. Năm tháng đi qua, các cơ sở hạ tầng ở Yên Quang đã xuống cấp. Đời sống người dân nơi đây dù còn nhiều thiếu thốn và chưa được cải thiện là bao, nhưng tình người vẫn ấm áp như xưa.

Hai người đàn bà

Nói đúng, cách đây hơn 40 năm họ còn là những cô gái trẻ. Ngày ấy, chị Sói – Hoàng Thị Sói là đội trưởng sản xuất, bí thư chi đoàn, còn K là một đoàn viên. Chúng tôi đến đóng quân đã nghe tiếng lành về họ. Là bí thư chi đoàn, chị Sói đã phối hợp chặt chẽ với các đơn vị quân đội tổ chức nhiều hoạt động gắn kết tình nghĩa quân dân. Tôi được cử phối hợp với chi đoàn địa phương tổ chức hội diễn văn nghệ quân dân đoàn kết. Tôi gặp K ở đó. Ấy là một cô gái có ánh mắt lạ và nụ cười bình yên như mặt hồ Yên Quang quê em. K vào vai một nhân vật trong vở kịch mà tôi vừa là tác giả, đạo diễn, vừa là diễn viên. Đã gần nửa thế kỷ rồi mà bây giờ đồng đội tôi vẫn còn nhớ. "Ngày ấy cậu đóng vai người yêu của K. Vậy khai mau, hai người có yêu nhau không?". Làm sao mà yêu được. Chỉ gặp nhau mấy ngày rồi vội vã hành quân vào chiến trường, làm sao có thể. Chưa nói yêu nhau, nhưng công bằng mà nói, như bao chàng trai cô gái mới lớn khác, chúng tôi cũng có cảm tình với nhau. Tiễn tôi ra mặt trận, K đã khóc. Cô ấn vào tay tôi một gói nhỏ rồi ù chạy. Tôi không mở ra ngay mà giấu kín dưới đáy ba lô gói quà ấy như một báu vật. Một tháng sau, đơn vị dừng chân trên đỉnh Trường Sơn, khi cơn sốt rét rừng đầu tiên ập đến, tôi đã mở quà tặng của K. Đó là một chiếc khăn tay có thêu dòng chữ: "Ra đi nhớ mãi lời thề. Chưa đánh hết giặc chưa về quê hương". Món quà nhỏ bé, giản dị đã tiếp thêm cho tôi sức mạnh. Những ngày sau đó tôi thấy người khỏe lên, tiếp tục cùng đồng đội vượt đèo, lội suối…

40 năm đã có biết bao thay đổi. Mỗi người một hoàn cảnh, một số phận. Chị Sói trở thành lãnh đạo xã rồi làm đến chức chủ tịch huyện, được bầu là đại biểu Quốc hội nữa. Còn K thật trớ trêu. Khi trưởng công an xã giới thiệu với tôi: "Đây là bà K!". Trong căn nhà tuềnh toàng dưới chân núi Cối, tôi không tin là K mà tôi đã gặp cách đây hơn 40 năm. Tim tôi đau thắt. Người con gái đoàn viên có mái tóc dài như suối và nụ cười bình yên như mặt hồ Yên Quang năm xưa đâu rồi? Chỉ còn lại trước mặt tôi người đàn bà khắc khổ, khô gầy như tàu lá héo. Riêng ánh mắt thì vẫn thế. Tuy cuộc gặp ngắn ngủi, nhưng tôi được bà con nơi đây kể cho nghe cuộc sống thăng trầm của K. Không biết vì lý do gì, đến nay K vẫn chưa lập gia đình. Cô nhận đứa cháu gái con người em trai làm con nuôi. "Em vẫn thế. Bây giờ chỉ có nguyện vọng được công nhận là người cô đơn". Không biết đùa hay thật. K đã nói với tôi như vậy trước khi chia tay. Mắt tôi nhòe đi. Con đường làng Mô gập ghềnh sỏi đá…

Và điều không thể mất

Hai câu thơ trong chiếc khăn màu hồng mà K tặng đã theo tôi đi khắp chiến trường. Sau gần 40 năm, đất nước sạch bóng quân thù, tôi trở lại thăm Yên Quang. Đồng đội tôi có biết bao người không trở lại. Đi thăm khắp lượt mảnh đất nơi thấm đẫm kỷ niệm một thời quân ngũ, chúng tôi ai cũng thấy xót xa. Đất nước ta đã bước vào giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa mà căn cứ đóng quân của chúng tôi ngày xưa vẫn còn nghèo khó quá. Trường vẫn chưa ra trường, lớp vẫn chưa ra lớp. Cả bệnh xá chăm sóc sức khỏe cho người dân cũng chưa đâu vào đâu. Phải làm một cái gì đó trả nghĩa cho bà con chứ? Đồng đội cùng đi chất vấn tôi. Có người lại nói, suốt ngày thấy báo chí, truyền hình đưa tin Chương trình Nghĩa tình Trường Sơn (NTTS) của Báo Sài Gòn Giải Phóng (SGGP) trao tặng hàng ngàn căn nhà tình nghĩa, nhiều bệnh xá quân dân y kết hợp, nhiều đền đài liệt sĩ… mà sao không dành cho Yên Quang, mảnh đất đầu nguồn Trường Sơn này một công trình tình nghĩa?

Và dự án bệnh xá quân dân y kết hợp với số vốn đầu tư xây dựng cơ bản 2 tỷ đồng đã hình thành từ đó. Ý tưởng được các anh trong Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng và Hội truyền thống Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh ủng hộ ngay. Ít ngày sau đó, chúng tôi - Ban tổ chức Chương trình NTTS và Đại diện Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng đã có cuộc làm việc với Tỉnh ủy, UBND và Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Ninh Bình để triển khai dự án. Nguồn được trích trong gói 52 tỷ đồng do Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương Việt Nam tài trợ cho giai đoạn 2 của Chương trình NTTS. Trung tướng Trần Hoa, nguyên Tư lệnh Bộ đội Biên phòng, một người con của quê hương Ninh Bình, cố vấn Chương trình NTTS cùng vào cuộc. Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Ninh Bình được giao làm chủ đầu tư đã cùng chúng tôi xuống tận Yên Quang chọn địa điểm xây dựng bệnh xá. Trong tương lai gần, nơi đây sẽ mọc lên một khu bệnh xá quân dân y kết hợp. Được tin ấy chị Sói và bà con Yên Quang mừng lắm. Vẫn như ngày nào, chị Sói và các đồng chí lãnh đạo địa phương cùng bà con các dân tộc nơi đây nồng nhiệt chào đón chúng tôi. Bà mẹ chị Sói hơn 90 tuổi, nghe chúng tôi về đã sai con cháu luộc khoai sọ cho đoàn mang theo. Chị Sói còn gửi cho chúng tôi một bao khoai sọ nữa, thứ khoai mà chúng tôi đã từng mệnh danh là "ngon nhất thế giới".

Tạm biệt làng Mô khi sương đã giăng mờ đỉnh núi. Hồ Yên Quang phẳng lặng, dịu êm như mắt người con gái mà tôi đã gặp gần nửa thế kỷ trước. Tôi nhớ mãi ánh mắt như khẩn cầu của K và câu nói của em trong tiếng gió xạc xào: "Bây giờ em chỉ có nguyện vọng được làm người cô đơn". Không cô đơn nữa đâu K ơi. Các anh đã về, bộ đội đã về làng. Rồi đây nhất định cuộc sống sẽ đổi thay như ước nguyện của bao người, trong đó có những đồng đội của các anh đã nằm lại chiến trường, không bao giờ được trở về Yên Quang nữa.

Đó là điều không thể mất.

TP Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2012

Ký của TRẦN THẾ TUYỂN