QĐND Online - Mùa hè năm 2009, tôi được ra Trường Sa công tác. Đây là lần đầu tiên đến với “quần đảo bão tố”, nên với tôi cái gì cũng mới, cảnh vật, con người, đất, trời, biển, cây cối, chim muông… Nhưng có một điều “không mới”! Ấy là trước ngày lên đường, thủ trưởng phụ trách tờ báo nơi tôi công tác dặn dò: “Ra Trường Sa, cậu sẽ gặp “người nhà” đấy!” …
“Người nhà” ở đây chính là Đoàn công binh hải quân M31, đơn vị “kết nghĩa” với báo Quân đội nhân dân Cuối tuần nhiều năm nay. Thật may mắn, trong hành trình, tôi đã có một đêm ngủ lại ở đảo Trường Sa Lớn, nơi anh em lính M31 đang đóng “đại bản doanh”. Cuối giờ chiều, tôi “mò” ngay xuống nơi M31 đóng quân và gặp Trung tá Nguyễn Xuân Ba, Phó tham mưu trưởng Đoàn, “tổng chỉ huy” các lực lượng thi công ngoài quần đảo. Trung tá Ba quê ở Trực Ninh, Nam Định, là cán bộ cấp trung đoàn nhưng mặt mũi, mình mẩy đen thui như một người thợ xây. Nước da Trường Sa đó! Anh về M31 công tác 21 năm thì cỡ 20 lần ra Trường Sa, lần nào cũng nửa năm đến 9, 10 tháng. Nghe tôi giới thiệu, anh rất vui và chia sẻ một điều “tâm đắc”:
- Trong lịch sử ngành xây dựng Việt Nam, có nhiều kiểu thợ xây nhưng có lẽ chỉ cánh lính công binh hải quân bọn tớ là được “tôn vinh nhất” khi cách đây mười mấy năm, đã có nhà báo Quân đội gọi bọn mình là “những người kê cao đất nước”.
 |
|
Bộ đội đơn vị M31 vận chuyển vật liệu thi công tại quần đảo Trường Sa (ảnh: Duy Khoát)
|
“Kê cao đất nước”, với lính công binh hải quân, quả là đúng cả nghĩa đen và nghĩa bóng! Song vui chuyện, tôi bèn “cảnh báo” Trung tá Ba rằng:
- Nhưng không phải chỉ khi lính công binh hải quân xuất hiện nơi “quần đảo bão tố” này thì đất nước mới được “kê cao” đâu bác nhé! Theo thư tịch cổ thì từ cách đây mấy trăm năm tổ tiên ta đã ra đây trấn giữ, khai thác vùng biển này. Ý nghĩa của cái sự “kê cao” có thể được hiểu rõ hơn vào năm 1925, sau hai năm nghiên cứu đo đạc và vẽ bản đồ, Tiến sĩ khoa học A. Kempt, Giám đốc Viện Hải học Đông Dương đã xác nhận Hoàng Sa, Trường Sa là sự tiếp nối tự nhiên từ thềm lục địa Việt Nam ra ngoài biển. Ngày nay, nếu chúng ta nói nôm na thì theo kết luận của tiến sĩ Kempt, nếu mực nước biển hạ xuống chừng 600m - 700m, Hoàng Sa và Trường Sa sẽ dính vào dải đất hình chữ S như một khối thịt liền! “Các bác” đi xây dựng những công trình chính là “kê cao” một phần thân thể của Tổ quốc cho nó nổi lên giữa mênh mông sóng nước đại dương! Cũng theo sử sách thì chí ít ra là từ thời Chúa Nguyễn, đã có những người thợ xây ra đây xây dựng các công trình đầu tiên khi nửa đầu thế kỷ XVII, các đội Hoàng Sa và Bắc Hải ra thu lượm hàng hóa, khí cụ và đánh bắt hải sản quý hiếm; tổ chức đo đạc, khảo sát, dựng bia, cắm mốc, trồng cây...Và thật là thú vị, hơn 200 năm sau, Trường Sa bây giờ lại có rất nhiều “hậu duệ” nhà Nguyễn do… Nguyễn Xuân Ba chỉ huy ra đây “kê cao đất nước”! Tôi nói vui khiến Trung tá Nguyễn Xuân Ba bật cười vui vẻ…
Vui chuyện, chúng tôi không hay trăng đã lên vượt quá những ngọn bàng vuông cao nhất. Đâu đó ở những phân đội trên đảo, tiếng hát “Vì nhân dân quên mình” đã vang lên bắt đầu một buổi sinh hoạt. Tôi đưa mắt nhìn khắp doanh trại của bộ đội M31 và chợt giật mình nhận ra: Gọi là “doanh trại” cho oai chứ khu nhà ở của cánh lính M31 chỉ là dãy nhà cót ép mới dựng. Đúng là “dao sắc không gọt được chuôi”. Lính M31 chuyên đi xây nhà cửa, công trình ngoài biển như những con ong thợ cần mẫn nhưng nhà xây xong thì họ lại bàn giao ngay cho đồng đội còn họ ở trong những ngôi nhà tạm, thậm chí ngay tại chiếc lán dựng cạnh công trình cho tiện cơ động. Lúc này tôi thêm một “phát hiện” nữa: tất cả đều tối thui, không một bóng người!
- Anh Ba này! Anh em bộ đội “biến” đi đâu cả mà không sinh hoạt nhỉ?
Lại một lần, tôi thấy mình thật “ngớ ngẩn” khi nghe anh Ba nói:
- Với lính công binh hải quân, một ngày mới thường bắt đầu khi…màn đêm xuống! Với bọn mình, Trường Sa không có ban đêm! Cậu đi theo mình sẽ rõ.
Theo chân anh Ba, tôi chui qua mấy lùm phong ba lúp xúp, theo bờ kè tiến ra mé đảo. Trăng lên càng cao, gió biển như thổi càng mạnh, sóng ầm ào xô bọt trắng ngoài dãy đá cạn xa xa… Chúng tôi tiến về phía khuất nhất của đảo, ánh trăng hạ tuần hôm nay còn nhợt nhạt. Tôi giật mình nhìn thấy lố nhố những bóng đen đang hì hục, sì sụp lặn ngụp. Trên bờ, tiếng đảo, xúc bê tông rào rạo. Một người cao to, mình cởi trần trùng trục lia đèn pin lia lịa rồi cầm thước đo đo, tính tính. Chẳng thấy quân hàm quân hiệu nhưng anh Ba giới thiệu đó là Đại uý, kỹ sư Vũ Hoài Nam, còn rất trẻ nhưng đã có tới 10 năm ra Trường Sa xây dựng. Những bóng đen đang hì hục lặn ngụp là các chiến sĩ thay phiên nhau lặn ở độ sâu 10m để thi công phần móng. Bất kể ngày đêm, cứ khi nào thủy triều xuống là họ lao ngay vào làm việc, chạy đua với thời gian, có khi liên tục từ 2 giờ đêm đến 9 giờ sáng.
Thật ra thì cụm từ “kê cao đất nước” cũng từng xuất hiện trong tiểu thuyết “Đảo chìm” của Trần Đăng Khoa với một chi tiết thú vị như thế này. Có vị tướng ra thăm và kiểm tra một hòn đảo chìm đã bắt gặp cậu lính trẻ tinh nghịch. Cậu ta bảo đại ý: “Bố” ạ! Đảo bé lắm! Chỉ cần con lấy xẻng xúc vài xẻng cát “giấu” đảo đi thì kẻ nào muốn nhòm ngó cũng “bó tay”. Vị tướng thấy thế đưa cho cậu ta một cái xẻng mới tinh: “Xẻng đây! “Mày” thử “giấu” đảo cho “bố” xem nào?”. Ai dè hôm sau trở lại, ông giật mình thấy cậu ta không xúc cát giấu đảo đi mà đang hì hục kê đá, xúc cát tôn cho nó…cao lên. Vị tướng hỏi cậu ta đang làm gì thì “cu cậu” hổn hển: “Con đang “kê cao đất nước”…
Chi tiết có tính chất ẩn dụ nọ mà Trần Đăng Khoa viết có vẻ thật “khó tin” nhưng ai cũng có thể chấp nhận bởi nó đã nói lên chân lý: Với những người lính Trường Sa, họ sẵn sàng dốc sức, dốc lòng “kê cao Tổ quốc” bằng bất cứ việc gì có thể. Như cố gắng vượt bậc của cánh chiến sĩ mới M31 năm nay là một ví dụ. Trong nhóm thi công do Vũ Hoài Nam chỉ huy, có tới 12 chiến sĩ trẻ, vừa xong kỳ huấn luyện ở Hải Phòng là lên tàu đi một mạch ra Trường Sa. Gần một tháng làm quen với biển, với nắng, vừa làm, vừa học xây, học nề, học trộn bê tông. Bùi Văn Năm, sinh năm 1989, quê ở Cẩm Phả, Quảng Ninh “thú nhận”: Trước lúc ra đảo, cậu ta “trộn cơm” còn chưa thạo vì bố mẹ nuông chiều. Thế mà giờ đây, cậu ta trộn bê tông nhoay nhoáy. Vất vả là thế, vậy mà 12 chàng lính mới tinh này chưa ai bị ốm, cũng chưa ai nghỉ làm. Và cũng thật đáng kinh ngạc, có lúc trong khoảng thời gian chỉ 1 ngày, 12 người trong đội thi công đã vận chuyển xong 200 tấn vật liệu! Họ chạy đua cùng sóng biển vì năm xưa, từng có lúc, trụ bê tông chưa kịp khô thì sóng đánh vỡ. Bê tông vỡ mà lồng ngực trai trẻ đau quặn. Phải làm lại từ đầu! Bao tiền của trôi theo sóng!
Dưới gốc bàng vuông, tôi bắt gặp một chàng trai trẻ mang quân hàm trung uý nhưng lại khệ nệ quấy nồi cháo cho anh em. Hoá ra là chính trị viên đại đội Dương Văn Thủy. Với lính công binh Hải quân, Trường Sa không có ban đêm và công tác Đảng, công tác chính trị cũng không kịp có nhiều “sinh hoạt, quán triệt”, “diễn đàn”. Chỉ có “làm nhiều hơn nói”. Thuỷ kể tôi nghe một chuyện nao lòng: “Đoàn công tác của Tổng cục Chính trị vừa tặng anh em một cây đàn ghi ta mới! Đơn vị đa phần là chiến sĩ mới! Anh em thấy đàn thích lắm, ai cũng muốn chơi nhưng xách vữa, trộn vữa nhiều, tay “lính mới” tróc từng mảng da, bị bào mòn bởi xi măng, nước biển nên phồng rộp, chịu không sao chơi được đàn, phải chờ nó chai dần”.
Bình minh lên! Những vỉa bê tông mới đẹp thẳng tắp đã khoe màu dưới nắng mới. Nhóm lính thợ đã trở về bên lán… Bất giác, tôi chợt nhớ đến dòng lưu bút của Đại tá Phạm Văn Miên, Phó tổng biên tập Báo Công an nhân dân ghi tại đảo chìm Tiên Nữ hôm nào: “Người ta truyền rằng, hòn đảo này xưa kia có những nàng tiên xuống tắm. Hôm nay trở lại, chẳng thấy nàng tiên nào cả mà chỉ có các anh, những người lính vừa canh giữ, vừa dựng xây vùng biển cực Đông Tổ quốc ngày càng thêm đẹp như tiên cảnh”. Đêm thầm lặng của những người “kê cao đất nước” sao mà cũng giống như câu chuyện thần thoại thuở nào, những nàng tiên đêm xuống xây thành Cổ Loa, sáng ra gà gáy thì lại về trời! Giống, mà khác! Bởi với họ, khi mặt trời lên công việc vẫn tiếp diễn, có người kết thúc ca đêm lại có người tiếp nối ca ngày. Như một nhà thơ đã viết về họ: Như muôn ngày/Mấy chục năm như thế/Lính công trình vẫn lính Trường Sa/Vẫn sắt thép, xi măng…/Và lời thề giữ biển/Tổ quốc lớn mỗi ngày trên bão tố phong ba…
Ghi chép của Nguyễn Văn Minh