QĐND - Từ năm 1982, tính từ khi chính thức triển khai lực lượng trên diện rộng nhằm thực hiện quyết định của Chính phủ về việc chinh phục Đồng Tháp Mười (ĐTM), đến nay đã tròn 30 năm, vùng đất này được tập trung khai thác phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn, tạo nên diện mạo mới, sức sống mới cho vùng đất chua phèn…

Nông dân xã Tân Công Sính, huyện Tam Nông (Đồng Tháp) chăm sóc lúa đông-xuân.

 

Trăn trở vùng đất phèn

Đầu năm 1982, công cuộc “đánh thức tiềm năng” vùng ĐTM được chính thức triển khai với việc nạo vét, mở thông luồng lạch kênh Hồng Ngự, làm mới và nâng cấp đường từ Tân An, Cao Lãnh xuyên vào vùng hoang hóa, nhiễm phèn cố hữu trong vùng lõi ĐTM. Sau 30 năm khai thác và tìm cách phát huy tiềm năng, thế mạnh ở vùng đất này, năng suất lúa đã đạt 5-7 tấn/ha, có hộ sản xuất vụ đông-xuân đạt 8-9 tấn/ha; sản lượng lúa năm 2011 toàn vùng ĐTM đạt gần 6 triệu tấn. Riêng ở tỉnh Đồng Tháp, sản lượng lương thực từ 530.000 tấn năm 1980 tăng lên hơn 2 triệu tấn năm 2011 trong đó lúa hàng hóa gần 1,5 triệu tấn. Dân số từ 604.714 người năm 1975 lên 1.665.420 người (4-2009); mật độ dân số từ 234 người/km2 lên 510 người/km2. Bình quân lương thực đầu người từ 305kg lên 1.661kg/năm.

Mùa lũ năm 2011 nước dâng có nơi ngập sâu hơn trận lũ lịch sử năm 2000, nhưng nhờ thành quả sau 30 năm khai thác, xây dựng kinh tế-xã hội vùng ĐTM, thiệt hại về lũ không đáng kể. Nhờ hệ thống đê bao, xây dựng cụm, tuyến dân cư tránh lũ, khơi thông cống bọng, tạo hành lang phân lũ, toàn vùng ĐTM đã bảo vệ được mùa màng, vụ thu-đông vẫn cho sản lượng cao, bảo đảm an toàn tính mạng tài sản của nhân dân.

Đổi thay kỳ diệu

Sau mùa lũ năm 2011, đến vùng ĐTM, chúng tôi nhận thấy nhiều đổi thay kỳ diệu trên vùng đất này. Trước hết là người nông dân trong vùng rất phấn khởi và vững tin bởi thành tựu lớn lao này. Ông Đoàn Văn Thông - nông dân ở xã Tuyên Bình, Vĩnh Hưng, Long An - kể lại: “Hồi mới về lập nghiệp ở đây, dân cư còn thưa thớt lắm. Đồng nước thì mênh mông vậy nhưng nước ăn uống phải hứng nước mưa, vì nước nhiễm phèn đỏ quạch. Đất thì toàn cỏ năn kim, lác, ô rô, muống dại, lục bình… Gia đình tôi lúc đó khẩn hoang và mua lại được khoảng 5ha, ra công cày vỡ để trồng lúa, mỗi năm được một vụ lúa mùa, năng suất chỉ cỡ 1,7 tấn/ha.

Từ chủ trương khai thác ĐTM, năm 1995, huyện Tân Phước (tỉnh Tiền Giang) được thành lập. Tuy "sinh sau, đẻ muộn" so với các huyện, thành phố, thị xã khác trong tỉnh, nhưng Tân Phước đã có những bước tiến vượt bậc về kinh tế-xã hội. Với hơn 12.000ha dứa, Tân Phước có vùng chuyên canh lớn nhất các tỉnh, thành phố phía Nam, mỗi năm cung ứng khoảng 200.000 tấn dứa nguyên liệu phục vụ tiêu dùng và chế biến xuất khẩu. Sau mỗi vụ dứa bội thu, ở Tân Phước lại có thêm nhiều nhà mới khang trang, hạ tầng đường-điện-trường-trạm được củng cố, phát triển, tạo diện mạo mới cho miền đất hoang hóa ngày nào.

Theo GS, TS Võ Tòng Xuân: Để khai thác vùng này cần phải có kế hoạch khoanh vùng phục hóa và giữ lại giá trị thiên nhiên để làm điểm tựa duy trì đa dạng sinh học. Công lao của những người từng đi khai hoang phục hóa và đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật về nơi đây để phục vụ cho nông nghiệp rất lớn, nhưng nếu chỉ đặt nặng vấn đề khai thác vùng đất ĐTM để trồng lúa thì cần phải suy nghĩ nhiều hơn. Việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, kết hợp nuôi trồng thủy sản; đổi mới, phát triển các mặt hàng nông sản, thực phẩm xuất khẩu, rồi du lịch nông nghiệp trên vùng đất ngập nước cũng là thế mạnh của ĐTM.

Mở hướng đầu tư chiều sâu

Biến ĐTM từ vùng đất hoang trở thành vùng sản xuất hai, ba vụ lúa, năng suất cao; phát triển đa dạng nguồn lợi thủy sản, phát triển đa ngành canh tác, chăn nuôi. Thành công này trước hết là đóng góp không nhỏ của Trung tâm nghiên cứu thực nghiệm nông nghiệp ĐTM.

Các nhà khoa học gắn bó với vùng ĐTM đã xây dựng và kêu gọi được nhiều dự án hợp tác quốc tế nhằm phát huy thế mạnh, mở hướng đầu tư chiều sâu và diện rộng cho vùng ĐTM. Đề tài “Kỹ thuật khai hoang trồng lúa trên đất phèn nặng” của Tiến sĩ Mai Thành Phụng đã bước đầu thực hiện các nội dung nghiên cứu khoa học, chuyển giao kỹ thuật cho vùng ĐTM. Một số giống lúa được công nhận giống lúa khu vực và giống quốc gia đã được đưa vào sử dụng đại trà.

Cũng trong 30 năm qua, thủy lợi được coi trọng đầu tư nhằm rửa phèn, ém phèn, cải tạo đất và chủ động tưới tiêu. Các công trình chống lũ, chủ động “sống chung với lũ” đã thúc đẩy kinh tế-xã hội trong vùng phát triển mạnh mẽ, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao. Nhờ đó mà năng suất lúa từ 1,5 tấn/ha vào năm 1976, đến nay vụ đông-xuân đạt bình quân hơn 7 tấn/ha.

Việc khai thác tiềm năng của vùng ĐTM trong 30 năm qua đã góp phần làm thay đổi căn bản bộ mặt, cũng như đời sống của người dân, đóng góp vai trò quan trọng trong việc bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và đẩy mạnh xuất khẩu trong lĩnh vực nông nghiệp. Lấy đà chuyển mình đổi mới đi lên, đó là bản lĩnh, là sức sáng tạo tuyệt vời của Đảng, các nhà quản lý, các nhà khoa học, và đặc biệt là sự góp sức của bà con nông dân vùng ĐTM. Thành tựu đáng phấn khởi và tự hào này đang tạo thế vững chắc trong thời kỳ mới, đưa vùng ĐTM phát triển toàn diện, khai thác có hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Bài và ảnh: Bùi Văn Bồng