Hồi còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông, tôi từng ước ao có một lần được lên thăm chiến khu Việt Bắc - một trong những cái nôi nổi tiếng của cách mạng Việt Nam. Vài năm trước, cũng đã qua thành phố “gang thép” mấy lần, nhưng vì nhiều lý do mà tôi vẫn chưa có dịp vào thăm mảnh đất Định Hóa (Thái Nguyên). Sau vài lần “lỡ hẹn”, vừa rồi tôi mới có cuộc “du ngoạn” lên miền quê cách mạng đã từng ăn sâu vào ký ức tôi từ nhỏ qua những câu thơ nổi tiếng: “Vui sao một sáng tháng năm/ Đường về Việt Bắc lên thăm Bác Hồ/ Suối dài xanh mướt nương ngô/ Bốn phương lồng lộng thủ đô gió ngàn” của nhà thơ Tố Hữu.

Du khách đến tham quan, thắp hương tại Nhà tưởng niệm Bác Hồ trên đỉnh đèo De. Ảnh: THIỆN VĂN

Từ Hà Nội lên thành phố Thái Nguyên, ngồi trong xe khách, mắt tôi lim dim, đầu mơ màng. Nhưng sau khi chuyển xe từ thành phố Thái Nguyên lên huyện Định Hóa, “bụng bảo dạ” phải luôn tỉnh táo để quan sát xem “Thủ đô gió ngàn” có lấp lánh như những vần thơ mình đã học hay không. Thời tiết những ngày cuối hạ đầu thu, trời trong xanh, nắng vàng nhạt. Nhìn qua cửa kính trong xe, trước mắt tôi hiện ra một màu xanh bát ngát của núi rừng Việt Bắc hùng vĩ. Không có những núi cao vách đá sừng sững như vùng Cao Bằng-Lạng Sơn; không thấy cảnh “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” như vùng Tây Bắc và cũng không nhiều quả đồi lúp xúp với những cây cọ xòe tán tầng tầng lớp lớp xen lẫn những cánh đồng, dòng sông uốn lượn như vùng trung du Phú Thọ, quang cảnh núi rừng Định Hóa vừa mang dáng vẻ của đại ngàn kỳ vĩ, vừa có những hình ảnh thân thuộc, gần gũi của làng quê Việt Nam. Những quả đồi nhấp nhô trùng trùng điệp điệp như những con sóng xanh vỗ lăn tăn ngút ngát tầm mắt. Những ruộng lúa, nương ngô dập dìu một màu xanh êm dịu. Những dòng suối trong leo lẻo lượn theo chân đồi, khe núi như một dải lụa thanh thiên mềm mại càng tôn lên vẻ đẹp sơn thủy hữu tình của núi rừng Việt Bắc. Tạo hóa đã ban tặng cho chiến khu Việt Bắc, trong đó trung tâm huyện Định Hóa có một địa thế tuyệt đẹp cả về lợi thế quân sự “tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ” (khi đánh có thể tiến công, khi lui có thể phòng ngự) và phong cảnh thiên nhiên, thời tiết, khí hậu. Bởi thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã quyết định chọn nơi đây là “Thủ đô kháng chiến” của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (thời kỳ 1947-1954).

Đặt chân trên mảnh đất ATK Định Hóa, nơi đầu tiên tôi đến thăm là Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh (người dân địa phương thường gọi là Đền thờ Bác Hồ) ở xã Phú Đình, huyện Định Hóa. Nhà tưởng niệm Bác Hồ được xây dựng trên đỉnh Đèo De, tựa vào dãy núi Hồng ba mặt có núi non che chở, mặt tiền nhìn xuống cánh đồng Tỉn Keo, Nà Lọm rộng mở, thông thoáng. Từ cổng Tứ trụ, tôi bước lên 115 bậc thì leo tới nhà Tam quan và từ đây, bước tiếp thêm 79 bậc nữa thì đến Nhà tưởng niệm Bác Hồ. Cô sơn nữ Ma Thị Bắc trong bộ áo chàm truyền thống của dân tộc Tày, nhân viên Nhà tưởng niệm Bác Hồ, có đôi môi tươi tắn như nụ hoa chúm chím trên khuôn mặt trắng hồng lúc nào cũng niềm nở với khách. Giọng nhỏ nhẹ, trong trẻo, Bắc giới thiệu với tôi:

- Anh có biết vì sao lại có những con số 115 và 79 không? Con số 115 để ghi nhớ công trình được xây dựng vào đúng dịp kỷ niệm 115 năm ngày sinh Bác Hồ (19-5-2005). Còn số 79 để tưởng nhớ đến 79 mùa xuân của Người. Chọn đúng vị trí “tả thanh long, hữu bạch hổ” trên quả đồi hình mu rùa để xây Nhà tưởng niệm Bác Hồ, người dân quê hương cách mạng Việt Bắc nguyện ước tên tuổi, sự nghiệp, tư tưởng và đạo đức của Người mãi mãi trường tồn cùng với non sông đất nước, với núi rừng Việt Bắc hùng vĩ.

Dưới bầu trời lồng lộng gió ngàn, tôi ngắm nhìn Nhà tưởng niệm Bác Hồ mang hình dáng kiến trúc ngôi đền chùa truyền thống của dân tộc, mái lợp đỏ, hệ thống đường bao quanh là 79 cây vạn tuế mang hình cánh sen đang nở - mà cảm thấy hồn nước non, trời đất của cả chiến khu Việt Bắc như hội tụ tại nơi linh thiêng này.

“Cây đa Bác Hồ” ở xóm Khuôn Tát có tuổi đời ngót trăm năm đến nay vẫn phát triển xanh tốt. Ảnh: THIỆN VĂN

Men theo con đường rừng uốn lượn quanh co, tôi đến chỗ cây đa có tuổi đời ngót trăm tuổi ngay dưới chân núi Hồng thuộc địa phận xóm Khuôn Tát, xã Phú Đình. Với vòng thân 6-7 người ôm, cao gần 30m và tán lá xòe rộng khoảng 35m, cây đa Khuôn Tát mà người dân bản địa vẫn thường gọi là “Cây đa Bác Hồ” sừng sững đứng đó như như một chứng nhân lịch sử còn ghi lại bao dấu ấn của Bác Hồ từng ở nơi đây. Vào những năm 1947-1948, trên bãi đất khá bằng phẳng dưới tán đa rợp bóng, vào giờ nghỉ buổi chiều, Bác Hồ cùng mấy anh em chiến sĩ bảo vệ, giúp việc thường chơi bóng chuyền hay tập võ Thái cực quyền để rèn luyện sức khỏe. Một tấm hình tư liệu quý giá còn lưu lại đến ngày nay là bức ảnh chụp Bác Hồ cùng 8 chiến sĩ bảo vệ, giúp việc đang luyện tập võ (năm 1948) ở bãi đất ngay cạnh gốc đa Khuôn Tát. Trên tấm ảnh, Bác cởi trần, khuôn mặt hốc hác, thân thể hơi gầy, nhưng đôi mắt cương nghị và đôi tay lên tấn mạnh mẽ, dứt khoát của Bác khi luyện tập võ vẫn hiện rõ mồn một. Mỗi lần xem lại tấm ảnh, lòng ai cũng cảm thấy rưng rưng. Càng thương Bác những năm ở rừng gian khổ bao nhiêu, chúng ta càng cảm phục tinh thần rèn luyện thể lực kiên trì, bền bỉ của Bác bấy nhiêu.

Từ “Cây đa Bác Hồ”, tôi tiếp tục theo lối mòn, lội qua con suối nhỏ, đi trên những bờ ruộng bậc thang để lên thăm khu di tích Bác Hồ ở bản Khuôn Tát. Nằm giữa rừng đại ngàn rợp bóng, ngôi nhà sàn đơn sơ của Bác Hồ lợp cọ, cột gỗ, vách bằng nứa, có sàn và cửa sổ thông thoáng. Nơi đây từng ghi dấu Bác Hồ đến ở và làm việc 4 lần vào các năm 1947, 1948, 1953, 1954. Trong thời gian mỗi lần ở một tuần hay một, hai tháng, Bác đã viết tài liệu, ký nhiều sắc lệnh nhằm củng cố chính quyền, xây dựng hậu phương, xây dựng các lực lượng vũ trang, từng bước làm thay đổi cục diện chiến trường chống thực dân Pháp.

Đứng bên cạnh ngôi nhà tranh vách nứa của Bác, tôi chăm chú lắng nghe TS. Chu Đức Tính, Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh kể lại câu chuyện của Bác dành tình cảm thân thương, trìu mến đối với đồng chí Hoàng Văn Lộc. Hồi đó, cuộc sống còn nhiều gian nan, thiếu thốn. Do làm việc triền miên, lại ăn ít, thức đêm nhiều nên có lần Bác bị đi kiết lỵ nặng. Thương Bác, đồng chí Đồng (tên Bác Hồ đặt cho ông Lộc) đã lặn lội lên rừng tìm kiếm bằng được loại cây thuốc nam chữa trị cho Bác khỏi bệnh. Nhưng sau đó ít lâu, ông Đồng bị mất sau một cơn sốt rét ác tính. Đúng vào ngày sinh nhật Bác 19-5, một số chiến sĩ bảo vệ và giúp việc đã hái được một bó hoa rừng mang lên nhà tặng Bác. Bác ân cần bảo: “Bác cảm ơn các chú đã tặng hoa Bác. Nhưng Bác đề nghị các chú mang bó hoa này để lên mộ chú Đồng ở ven suối gần đây”. Cử chỉ bất ngờ ấy của Bác khiến mọi người vô cùng xúc động. Rồi Bác nói với mọi người rằng, lúc sống chú Đồng làm việc tận tụy, chu đáo, không tính toán gì thiệt hơn. Trước lúc ra đi, chú ấy cũng không đòi hỏi gì. Chú Đồng có phẩm chất chân chính nhất của người cộng sản.

Kể xong câu chuyện, TS Chu Đức Tính nói:

- Sự vĩ đại của Bác không phải là những gì cao siêu, mà chính là những câu chuyện giản dị đời thường mà đầy ắp tình người cao cả như vậy. 

Rời lán Khuôn Tát, theo con đường độc đạo xuyên qua rừng, tôi đến tham quan di tích lán Bác Hồ tại đồi Tỉn Keo. Nếu Định Hóa là “Thủ đô gió ngàn” của cả vùng ATK Việt Bắc, thì đồi Tỉn Keo chính là “trái tim” trong đó. Rừng xanh rợp bóng, khí hậu trong lành, không gian thoáng đãng, bốn bề có đồi núi bao quanh, phía trước có bãi đất khá phẳng phiu, thật hiếm thấy một nơi nào lại có địa thế “Trên có núi/ Dưới có sông/ Có đất ta trồng/ Có bãi ta chơi/ Tiện đường sang Bộ tổng/ Thuận lối tới Trung ương” như khu vực Tỉn Keo mà Bác Hồ đã lựa chọn. Tại đây, ngày 6-12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì hội nghị Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Ngôi nhà lán đơn sơ vẫn còn đó một bộ bàn ghế mộc mạc. Trên tường treo tấm hình Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí trong Bộ Chính trị thông qua phương án tác chiến của Tổng quân ủy - Bộ tổng tư lệnh trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử. Trước ngôi nhà còn một cây dâm bụt Bác Hồ trồng năm xưa. Qua hơn nửa thế kỷ, nhờ cháu con giữ gìn, chăm chút, cây dâm bụt của Bác đến nay vẫn phát triển tươi tốt, cành lá mơn mởn.

Bà Ma Thị Tôm, dân tộc Tày, ở thôn Tỉn Keo năm nay đã 80 tuổi nhưng dáng vóc vẫn khỏe mạnh. Với bà, dù không được trực tiếp phục vụ Bác Hồ, song trong ký ức bà còn vẹn nguyên hình ảnh một ông lão tóc bạc, râu dài, đôi mắt tinh anh và khuôn mặt phúc hậu như một “ông Tiên”. Lúc cùng tôi vào thăm lán Tín Keo, bà Tôm kể lại rằng, khi đi lên rừng, làm nương, nhặt củi, thỉnh thoảng đi qua khu vực Tỉn Keo, bà vẫn nhìn thấy Bác Hồ. Bà Tôm kể:

- Trông người Bác hơi gầy, tôi thương lắm. Có lần, Bác và các đồng chí lãnh đạo họp bàn gì đó ở trong lán khá lâu. Khi bước ra ngoài nghỉ giải lao, tôi thấy đôi mắt Bác đăm chiêu như nghĩ ngợi điều gì rất trọng đại. Sau này tôi mới biết, lúc ấy, Bác vừa bàn luận với Bộ Chính trị về việc quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, đánh tan giặc Pháp xâm lược. Suốt cuộc đời gắn bó với mảnh đất này, mỗi lần nhìn lán Tỉn Keo dưới rừng cây xanh rợp bóng, tôi thấy hình bóng Bác như vẫn còn ở đó.

Nói đến đây, bà Tôm dừng lại giây lát rồi bảo:

- Thật phúc đức cho dân tộc ta có được Bác Hồ. Và thôn Tỉn Keo chúng tôi cũng thật may mắn được Bác Hồ chọn là nơi làm việc và chỉ đạo Trung ương ra những quyết định lịch sử làm thay đổi vận mệnh dân tộc và số phận mỗi người dân Tỉn Keo chúng tôi. Ơn Bác, ơn Đảng suốt đời vẫn chưa thấu, cháu ạ! Bây giờ, lán Tỉn Keo trở thành di tích lịch sử quốc gia rồi, tôi thường bảo ban con cháu phải có trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ để hình ảnh Bác sống mãi với quê hương mình.

Ghi chép của NGUYỄN VĂN HẢI

(Còn nữa)