 |
|
Đại đội trưởng trinh sát Trần Tiến Cung (ảnh chụp năm 1954). |
Tôi gặp Thiếu tướng Trần Tiến Cung lần đầu tiên vào năm 2005, khi ông còn làm Chủ tịch Hội Cựu chiến binh thành phố Đà Nẵng. Biết ông từng giữ cương vị Phó tổng cục trưởng Tổng cục 2, lại gần 20 năm đảm nhiệm Cục trưởng Cục 11 (Tình báo quân sự miền Trung), tôi bám theo từ trụ sở về nhà riêng để hỏi chuyện. Nhưng vốn là người nguyên tắc, ông khéo từ chối. Ông bảo, ông chủ yếu là người làm công tác tổ chức tình báo, không có nhiều chuyện gay cấn, hồi hộp như các nhà tình báo chiến lược Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Xuân Ẩn, Đặng Trần Đức (Ba Quốc), Phạm Ngọc Thảo... Vả lại, ông vẫn là người của tổ chức, nên việc cung cấp cho nhà báo phải hỏi “mấy ảnh” ở ngoài Tổng cục.
Về Hà Nội, qua nhiều mối liên hệ, tôi biết Thiếu tướng Trần Tiến Cung tuy không được cài sâu vào trong hàng ngũ của địch, nhưng vô cùng quan trọng trong hệ thống tình báo quân sự nước ta. Ông và một số đồng đội chuyên làm công tác tổ chức, tuyển chọn của Tổng cục 2 “thầm lặng hơn cả những người thầm lặng”, là chỗ dựa tin cậy cho các tình báo viên.
Người ta gọi ông là một trong những “điểm tựa của những người thầm lặng”.
Sau 3 năm liên lạc bằng điện thoại, cuối cùng ông cũng đồng ý kể cho tôi nghe một phần cuộc đời ông và Cụm tình báo miền Trung, bắt đầu từ năm 1965, khi ông nhận nhiệm vụ Cụm trưởng Cụm H.32.
Tôi khấp khởi vào Đà Nẵng, mặc dù cuối năm 2008, trời Đà Nẵng đột nhiên trở lạnh.
*
* *
Một buổi sáng tháng 5-1965, đồng chí Hoàng Quốc Việt, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao cho gọi thư ký riêng của mình là Trần Tiến Cung vào phòng làm việc và bảo:
- Bên Bộ Quốc phòng xin cậu về lại, cậu tính sao?
Không chút chần chừ, Trần Tiến Cung trả lời ngay:
- Thưa anh, miền Nam còn trong lửa đạn, nếu Bộ Quốc phòng yêu cầu thì tôi sẵn sàng!
Đồng chí Hoàng Quốc Việt nhìn Trần Tiến Cung. Chàng trai có dáng dấp thư sinh người Quảng Ngãi này, sau 5 năm làm việc dưới quyền ông, rất mẫn cán và sắc sảo trong giải quyết công việc, khiến ông vô cùng yêu mến. Nhưng đất nước đang chiến tranh, phải ưu tiên trước hết cho nhiệm vụ quân sự. Ông nói:
- Tôi rất muốn giữ cậu lại, nhưng các anh ở Bộ Quốc phòng nói rằng, cậu am hiểu về Đà Nẵng, Huế và nhiều tầng lớp tư sản, trí thức miền Trung nên các anh muốn cậu vào trong đó. Thôi, cậu về chuẩn bị…
Suốt đêm hôm đó, nằm bên vợ và ba đứa con, Trần Tiến Cung không ngủ được. Chưa biết công việc sắp tới là gì, nhưng chắc chắn sẽ gian khổ, hy sinh. Nhìn vợ và ba đứa con ngủ ngon lành, quả thực lúc đó anh không muốn rời xa. Nhưng quê hương anh đang rên xiết dưới gót giày của quân xâm lược. Đã 11 năm xa quê, giờ đây trở về quê hương chiến đấu đã trở thành khát vọng của hàng vạn người con miền Nam trên đất Bắc. Hình ảnh quê hương cứ đan quyện với hình ảnh vợ con anh suốt đêm hôm ấy. Anh nhớ về xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, Quảng Ngãi quê anh. Nhớ ngày 1-1-1946, lúc tròn 18 tuổi, chàng trai Năm Cung nhập ngũ vào Tiểu đoàn Lương Ngọc Quyến, Trung đoàn 69 của bộ đội Quảng Ngãi. Vốn nhanh nhẹn và thông minh, Năm Cung được chọn vào đội trinh sát. Từ đó đến khi hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, anh đã từng là cảm tử quân của trung đoàn, chiến đấu trên chục trận lớn nhỏ, bị địch bắt dũng cảm vượt ngục trở về, trở thành đại đội trưởng trinh sát gan lỳ có tiếng.
Tập kết ra Bắc, Trần Tiến Cung được biên chế vào Sư đoàn 324 đóng quân ở Nghệ An và là Trưởng ban 2 (quân báo) của sư đoàn. Năm 1958, anh được phong quân hàm đại úy. Đang làm việc tốt thì năm 1960, anh được điều động về Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao. Sau đó, từ Phó trưởng phòng Điều tra thẩm cứu chuyên thụ án những vụ án lớn, trọng điểm, ông được điều lên làm thư ký riêng cho Viện trưởng…
Hôm sau, Trần Tiến Cung lên Bộ Quốc phòng nhận việc thì mới biết mình được điều về làm công tác tình báo quân sự (lúc đó có tên công khai là Cục Nghiên cứu). Anh nói với đồng chí trong Ban tuyển chọn:
- Tôi từ trước tới nay chỉ biết làm bộ đội đánh giặc chứ có biết làm tình báo bao giờ đâu?
Đồng chí trong Ban tuyển chọn nhìn anh, cười:
 |
|
Nguyễn Thị Thủy Tiên, vợ đầu của Thiếu tướng Trần Tiến Cung. |
- Làm trinh sát, quân báo và làm tình báo thì có gì xa nhau đâu. Chúng tôi đã nghiên cứu về anh rất kỹ. Anh rất cần cho tình báo miền Trung lúc này.
Rồi đồng chí trong Ban tuyển chọn nói qua tình hình miền Trung và tình báo quân sự của ta ở khu vực ác liệt này.
Năm 1954, sau khi chuyển quân tập kết, Ban Tình báo Liên khu 5 ở lại miền Nam hoạt động bí mật. Năm 1959-1960, địch khủng bố gắt gao, nhiều cơ sở của ta bị vỡ, nhiều chiến sĩ tình báo, trong đó có Trưởng ban Tình báo Liên khu 5 Lê Cầu bị địch bắt và đưa đi đày. Trước tình hình đó, tình báo miền Trung được thành lập lại và tổ chức thành hai đơn vị: H.32 và B.54. H.32 gắn bó với chính quyền địa phương, vừa phục vụ cho Trung ương, còn B.54 tuy là tình báo miền Trung nhưng do Trung ương quản lý trực tiếp. Đến năm 1966, hai đơn vị này sáp nhập lại nhưng nhiệm vụ cơ bản vẫn không thay đổi.
Khó nhất của tình báo miền Trung là phụ trách, theo dõi địch từ Quảng Trị đến Khánh Hòa, ngoài ra tùy tình hình cụ thể, trên có thể giao thêm nhiệm vụ ở Sài Gòn hoặc Tây Nam Bộ. Trong khi đó, thế bố trí địch ở miền Trung đã chặt chẽ, lực lượng của địch, nhất là ở Đà Nẵng và Quảng Trị được tăng cường tối đa. Đó là chưa kể bọn mật thám trà trộn vào hàng ngũ ta để chỉ điểm bắt bớ cán bộ và chống phá cơ sở cách mạng.
Trần Tiến Cung về làm Cụm trưởng Cụm H.32 trong tình hình như vậy.
3 ngày sau khi gặp đồng chí trong Ban tuyển chọn, Trần Tiến Cung được cử đi học lớp tình báo 5 tháng ở Cục Nghiên cứu. Tại đây, anh mới hiểu, không chỉ là “chui sâu, leo cao” vào hàng ngũ địch mới là khó khăn, nguy hiểm, mà những người ở phía sau làm công tác tổ chức cũng quan trọng không kém. Phải nghiên cứu rất kỹ về địch, về các đối tượng mình quan tâm, từ đó mới đi tuyển chọn những tình báo viên thích hợp để “cài” vào. Kẻ địch giờ đây còn nham hiểm và tàn ác gấp trăm lần bọn phòng nhì Pháp, với đội ngũ được CIA đào tạo cơ bản và mạng lưới mật vụ dày đặc chăng lưới khắp nơi.
Do đó, tổ chức tuyển chọn tình báo viên là công việc hết sức kỹ lưỡng, chi ly và khoa học, nếu sơ sảy một chút thì không những đồng đội mình bị nguy hiểm, mà thành quả bao nhiêu năm gây dựng của ngành tình báo sẽ bị đổ vỡ. Chọn được người xong là bắt tay vào huấn luyện, từ tác phong đi lại, ăn nói, cử chỉ đến nghề nghiệp làm bình phong cho hoạt động tình báo. Đó gọi là kế hoạch phát triển cán bộ và địa bàn. Tất cả giấy tờ, ngụy trang của tình báo viên người tổ chức tình báo phải lo hết. Sau này, thực tế ở chiến trường đã giúp cho Trần Tiến Cung có thêm nhiều kinh nghiệm về điều đó. Trong câu chuyện “cài cắm” người của mình, ông nhấn mạnh từ tỉ mỉ, khoa học và hết lời ca ngợi “Ban tuyển chọn” ở Cục Nghiên cứu. Đó thực sự là những điểm tựa cho những người hoạt động trên trận tuyến thầm lặng.
5 tháng sau, Trần Tiến Cung tạm biệt vợ con, khoác ba lô vượt Trường Sơn để trở về quê hương. Phía trước anh là gian khổ, là bom đạn, là cuộc đấu trí căng thẳng với cơ quan tình báo kẻ thù. Ra đi, không thể hẹn ngày trở về vì anh biết và sẵn sàng chấp nhận sự hy sinh có thể đến bất cứ lúc nào. Anh cảm thấy yên tâm khi vợ con anh được sống ở Hà Nội, tuy còn bom đạn nhưng được sự chở che của đồng chí, đồng bào.
Nhưng cuộc đời đôi lúc như một nghịch lý. Ngày anh từ chiến trường ra Hà Nội chữa bệnh thì cũng là lúc vợ anh lâm bệnh nặng và chỉ vài tháng sau chị vĩnh viễn xa anh và các con. Chị có cái tên rất đẹp: Thủy Tiên, là đồng hương với anh. Năm 1954 tập kết ra Bắc, chị dạy ở trường học sinh miền Nam, sau chuyển về Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Hà Đông. Chị ra đi để lại cho anh 2 đứa con trai sinh đôi 10 tuổi và đứa con trai thứ 3 mới lên 6 tuổi. Nhà tình báo quân sự đã từng lăn lộn ở chiến trường đã chới với khi người vợ thân yêu của mình ra đi quá đột ngột. Nó như một khúc bi tráng, như số phận của những chàng trai Vệ quốc trong “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan hay “Quê hương” của Giang Nam từng lay động hàng triệu con tim. Nhưng với Trần Tiến Cung là một nách 3 con nhỏ và nhiệm vụ bí mật và nặng nề chưa hoàn thành. Vì vậy, vài năm sau, câu chuyện tình của anh lại rẽ theo một hướng khác, với sự cảm thông, chia sẻ của hai trái tim từng đau đớn và tồn tại mãi cho đến ngày hôm nay.
Nhưng đó là câu chuyện tình khác không nằm trong bài viết này.
HỒNG SƠN
(Còn nữa)
Kỳ sau: đất hiểm