Sự nghiệp quốc tế cao cả của nhân dân Việt Nam trong thế kỷ XX
Kể từ tháng 5-1975 đến ngày 23-12-1978, chúng đã giết hại hơn 5.000 dân thường Việt Nam, làm bị thương gần 5.000 người, bắt và đưa đi thủ tiêu hơn 20.000 người. Hàng ngàn trường học, bệnh viện, cơ sở y tế, nhà thờ, chùa chiền bị đốt phá, hàng ngàn trâu, bò bị cướp, giết, hàng ngàn héc-ta lúa, màu bị phá hoại. Hàng vạn héc-ta ruộng đất và đồn điền cao su ở vùng ven biên giới Tây Nam bị bỏ hoang. Nửa triệu dân sát biên giới phải bỏ nhà, bỏ đất, bỏ ruộng chạy dạt về phía Đông, sống chen chúc bên những hố bom B52 chưa kịp lấp.

Nhân dân Cam-pu-chia chào đón bộ đội tình nguyện Việt Nam vào giải phóng. Ảnh: vietbao

Sự khủng bố và kìm kẹp dã man của Pôn Pốt đã làm bùng lên hàng loạt cuộc nổi dậy chống chế độ diệt chủng ở khắp nơi trên đất Cam-pu-chia, từ đông-bắc đến tây-nam mà đỉnh cao là Quân khu Đông Kông-pông Chàm, Prây-veng, Xoài Riêng. Hàng vạn dân Cam-pu-chia đã chạy thoát sang tị nạn ở Việt Nam. Tháng 6-1977, ông Hun Xen sớm nhận rõ bản chất phản động của Pôn Pốt, đã tập hợp những thanh niên yêu nước, xây dựng và huấn luyện những đơn vị vũ trang yêu nước đầu tiên. Ông Hun Xen đã cùng ông Hêng Xom-rin, Chia Xim, Bu Thoong… những người lãnh đạo cuộc nổi dậy chống Pôn Pốt ở các nơi, xây dựng Đảng Nhân dân cách mạng Cam-pu-chia. Ngày 2-12-1978, Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia với Đảng Nhân dân cách mạng Cam-pu-chia làm nòng cốt lãnh đạo đã được thành lập và ra mắt nhân dân ở Snoul thuộc tỉnh Króc-chi-ê.

Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia đề nghị với Việt Nam: Hãy cứu giúp chúng tôi, không phải chỉ cứu giúp mấy vạn người tị nạn, mà phải cứu giúp cả một dân tộc.

Vậy, phải làm gì bây giờ? Câu trả lời của những người có lương tâm sống tình nghĩa và một đất nước có chủ quyền là: Phải xóa bỏ chế độ diệt chủng Pôn Pốt-nguyên nhân, nguồn gốc gây ra cuộc chiến tranh xâm lược man rợ ở biên giới Tây Nam Việt Nam. Chừng nào còn chế độ diệt chủng Pôn Pốt thì dân tộc Cam-pu-chia còn đắm chìm trong thảm họa diệt chủng và Việt Nam không bao giờ có hòa bình và ổn định để xây dựng.

Việt Nam đã tự kiềm chế và nhiều lần đề nghị với Trung ương Pôn Pốt tìm cách cùng nhau đàm phán giải quyết xung đột một cách hòa bình. Nhưng mọi cố gắng cứu vãn hòa bình của Việt Nam đều bị Pôn Pốt cự tuyệt.

Và Việt Nam đã hành động như mọi con người chân chính, như một dân tộc yêu chuộng công lý phải hành động. Theo tiếng gọi khẩn thiết của nhân dân Cam-pu-chia và Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia và vì sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc thiêng liêng, ngày 23-12-1978, Quân đội nhân dân Việt Nam đã mở cuộc phản công chiến lược đập tan cuộc tiến công toàn tuyến hòng đánh chiếm thị xã Tây Ninh của Pôn Pốt. Và sau đó, chuyển sang tiến công, cùng với các lực lượng vũ trang của Mặt trận dân tộc cứu nước Cam-pu-chia mới gấp rút xây dựng, đánh tan lực lượng quân sự Pôn Pốt và xóa bỏ chế độ diệt chủng Pôn Pốt.

Ngày 7-1-1979, thủ đô Phnôm Pênh được giải phóng và đến ngày 17-1-1979, sau 25 ngày, tất cả các thành phố, thị xã, thị trấn trên đất nước Cam-pu-chia đã được hoàn toàn giải phóng khỏi chế độ diệt chủng.

Với một chiến dịch phản công và giành được thắng lợi nhanh gọn như vậy, không phải chỉ do lòng dũng cảm và nghệ thuật quân sự, mà điều cực kỳ quan trọng là nhờ sự đồng lòng của nhân dân Cam-pu-chia. Không có sự đồng lòng của nhân dân Cam-pu-chia, không thể có tốc độ kỳ diệu đó, đánh tan được lực lượng quân sự hơn 21 sư đoàn quân Pôn Pốt chạy không kịp trở tay.

Trên tất cả các hướng, các chiến sĩ tình nguyện Việt Nam được đón tiếp bằng sự vui mừng không kể xiết của những người dân Cam-pu-chia được giải phóng. Những người già ở tỉnh Bát-tam-boong kể: “Chúng tôi theo đạo Phật, chúng tôi ngày đêm cầu trời khấn Phật cứu giúp, nhưng ngày này qua ngày khác không thấy ai đến. Chúng tôi nghĩ trên cõi đời này chỉ có Việt Nam có thể cứu chúng tôi. Quả nhiên bộ đội Việt Nam đã đến”. Cán bộ và chiến sĩ Việt Nam bàng hoàng xúc động trước sự đau khổ cùng cực của nhân dân Cam-pu-chia, sự dã man kinh tởm của chế độ Pôn Pốt, khi tận mắt chứng kiến những gì đã xảy ra, còn khủng khiếp gấp bội, ngoài sức tưởng tượng của con người.

Đánh tan rã địch và cứu dân là hai việc cấp bách như nhau. Nhiều người dân đã được cứu sống ngay khi sắp bị bọn Pôn Pốt hành quyết, nhiều người đã được khiêng, cõng đưa về, vì kiệt sức không thể nào đi nổi. Trên toàn bộ đất nước Cam-pu-chia vừa được giải phóng, bộ đội Việt Nam, các chuyên gia Việt Nam và bạn bè Cam-pu-chia đã giúp hàng chục vạn, hàng triệu dân tiều tụy, đói khát, từng đoàn, từng đoàn người trở về quê cũ, nơi mà bọn Pôn Pốt đã buộc họ phải rời bỏ. Ở đâu cũng phải cứu đói, giúp dân bắt tay vào sản xuất và làm lại nhà cửa, lập lại bệnh xá, khôi phục trường học, chùa chiền. Thấu hiểu tình cảnh khó khăn của người dân Cam-pu-chia, nhiều chiến sĩ và chuyên gia Việt Nam được phái về nước đem những giống lúa, hạt rau tốt của quê hương mình sang giúp từng gia đình, từng xóm ấp ở Cam-pu-chia. Mặc dù căm thù bọn Pôn Pốt giết hại dã man người dân Cam-pu-chia nhưng các chiến sĩ Việt Nam không hề có bất cứ hành động trả thù nào đối với tù binh, hàng binh. Tù binh và hàng binh Pôn Pốt được đối xử rất nhân đạo; những người bị thương được cứu chữa và giúp trở về quê; những người khỏe mạnh được giáo dục và cho trở lại rừng gọi tàn quân Pôn Pốt ra hàng, có người còn được cho mang theo súng. Ban đầu, việc làm này đã gây không ít ngạc nhiên cho người dân Cam-pu-chia, vốn hết sức căm thù Pôn Pốt. Nhân dân Cam-pu-chia gọi bộ đội Việt Nam là “bộ đội nhà Phật” giúp nhân dân Cam-pu-chia anh em thực hiện một cuộc hồi sinh dân tộc vĩ đại. Chỉ có thể đánh giá đúng sự hồi sinh dân tộc kỳ diệu này nếu đặt nó trong hậu quả khủng khiếp, những tàn phá đảo lộn mà chế độ diệt chủng Pôn Pốt đã gây ra cho đất nước, xã hội, môi trường sống và đặc biệt là với con người.

Sau khi vào Phnôm Pênh, đến Kô-kông và Prết-vi-hia giúp bạn bước đầu hồi sinh dân tộc, quân tình nguyện Việt Nam chỉ mong sớm được trở về. Dân tộc Việt Nam, theo truyền thống của cha ông, chỉ muốn hòa hiếu, tắt muôn đời chiến tranh.

Nhưng như chúng ta đã biết, Pôn Pốt bị đánh tan rã, bỏ chạy về biên giới Tây và Tây Bắc và lén lút ở lại một số vùng rừng núi trong nội địa. Chúng bắt đầu phản kích, tổ chức những cuộc khủng bố nhân dân, thậm chí ném lựu đạn vào các đám cưới giết hại cô dâu chú rể. Những cuộc tiến công khủng bố ngày càng tăng về quy mô và cường độ.

Nguy cơ chế độ diệt chủng quay trở lại hằng ngày đè nặng lên tâm trí nhân dân Cam-pu-chia, đặt họ trước những lo âu và sợ hãi mới.

Cam-pu-chia đã tổ chức Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội. Nhà nước Cộng hòa nhân dân Cam-pu-chia được thành lập. Nhưng rõ ràng, nhân dân Cam-pu-chia, sau họa diệt chủng thảm khốc, với lực lượng mới xây dựng còn non trẻ chưa thể tự bảo vệ được trước một cuộc phản công mới của Pôn Pốt.

Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Cam-pu-chia đã chính thức yêu cầu Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam ở lại giúp Cam-pu-chia. Nếu quân đội và chuyên gia Việt Nam về nước ngay thì có nghĩa là bỏ mặc nhân dân Cam-pu-chia lại rơi vào thảm họa. Và hiển nhiên là cuộc diệt chủng mới tàn bạo gấp bội sẽ lại diễn ra lần nữa; quân Pôn Pốt sẽ lại áp sát biên giới Việt Nam, tiếp tục cuộc chiến tranh tội ác chống Việt Nam, tiếp tục kích động hận thù dân tộc, đánh lâu dài, đánh ngay trên đất Việt Nam.

“Giúp nhân dân nước bạn là mình tự giúp mình”. Với lòng yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế trong sáng, Quân tình nguyện Việt Nam và chuyên gia Việt Nam hiểu rõ chân lý ấy, không thể bỏ mặc nhân dân Cam-pu-chia mới được giải phóng rơi vào tay Pôn Pốt một lần nữa, không thể để cho Pôn Pốt trở lại gây tội ác, moi gan, mổ bụng đồng bào ở biên giới Tây Nam Việt Nam. Biết rằng, tiếp tục ở lại là phải chịu nhiều hy sinh gian khổ, Quân tình nguyện Việt Nam và chuyên gia Việt Nam đã quyết định ở lại thêm một thời gian giúp nhân dân Cam-pu-chia chống chế độ diệt chủng quay trở lại và hằng năm tổ chức từng đợt rút quân trở về, cho đến ngày 26-9-1989 thì hoàn toàn rút về nước.

Thời báo Can-bơ-rơ (Ô-xtrây-li-a) ngày 19-3-1989 đánh giá: “Ai cũng phải thừa nhận Việt Nam vào Cam-pu-chia đã đem lại kết quả rõ ràng… Hành động đó được nhân dân Cam-pu-chia ở khắp nơi chào đón như là sự giải phóng cho họ. Và ai cũng thấy rõ ràng là sở dĩ từ trước đến nay Khơ-me đỏ không thể trở về được Phnôm Pênh, chủ yếu vì sự có mặt của Việt Nam…”.

Mọi người đều biết sau đó nhân dân Cam-pu-chia, Đảng Nhân dân Cam-pu-chia, nhà nước Cam-pu-chia và sau này là Chính phủ Vương quốc Cam-pu-chia đã phải tốn thêm 10 năm nữa mới làm tan rã hoàn toàn lực lượng Pôn Pốt.

Ngày nay, đất nước Cam-pu-chia đang sống trong hòa bình, xây dựng và phát triển, khu vực Đông Nam Á trở thành một khu vực ổn định, phát triển năng động, 10 nước ASEAN đoàn kết trong một Hiệp hội. Ba nước Việt Nam, Cam-pu-chia, Lào trên bán đảo Đông Dương có được môi trường hòa bình và tình đoàn kết hữu nghị để xây dựng tiến kịp bè bạn. Vùng lúa Đồng bằng sông Cửu Long, vùng cây công nghiệp miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên phát triển mạnh mẽ, sự ổn định của đất nước và sự nghiệp đổi mới của Việt Nam tiếp tục giành được những thành tựu đáng tự hào. Đạt được những điều đó, có một nguyên nhân cực kỳ quan trọng: Chế độ diệt chủng và lực lượng Pôn Pốt đã bị xóa bỏ và tan rã hoàn toàn.

Thực tiễn là sự kiểm nghiệm chân lý.

Thực tiễn hùng hồn ấy đã chứng minh chân lý: Xóa bỏ chế độ diệt chủng Pôn Pốt, bảo vệ chủ quyền đất nước, giúp dân tộc Cam-pu-chia giải phóng, việc làm đó của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn.

Cứu nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi họa diệt chủng, thực hiện hồi sinh dân tộc, đó là sự nghiệp quốc tế cao cả, sáng ngời chính nghĩa của nhân dân Việt Nam trong thế kỷ XX.

Trung tướng LÊ HAI