QĐND Online - Đã 4 thập kỷ trôi qua, bất chấp bụi thời gian cũng những bộn bề, lo toan thường nhật, với chị Hoàng Thị Lựu, Phó Chủ tịch Hội CCB Dân chính Đảng thành phố Đà Nẵng, ký ức về quãng đời sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong đội hình Tiểu đoàn vận tải 232 - Cục Hậu cần Quân khu 5 những năm 1968-1972 vẫn sống động, tươi mới, như vừa mới hôm qua.
Mới 15 tuổi cô gái phường Hòa Hải, quận ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng) đã gia nhập lực lượng thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước. Năm 1968, vừa tròn 18 tuổi, chị đã được kết nạp vào Đảng và được bổ nhiệm làm Chính trị viên phó rồi Chính trị viên trưởng Đại đội 1 - Tiểu đoàn 232 khi đơn vị này vừa được thành lập. Chị tâm sự: “Lúc ấy tôi còn rất trẻ, kinh nghiệm trong cuộc sống, công tác còn ít ỏi, trọng trách được giao lại nặng nề. Đại đội có hơn 100 quân nhân đều là chiến sĩ gái. Là cán bộ phải đầu tàu thì mới thuyết phục được chị em, vì thế lượng hàng tôi cõng bao giờ cũng nặng hơn mười lăm, hai mươi ký. Sau mỗi ngày làm việc, mọi người ăn xong lăn ra ngủ lấy sức thì tôi đi kiểm tra khắp các trung đội để nắm tình hình. Do quân số làm nhiệm vụ lại thường biến động, có người sốt rét, bị thương, bị bệnh phụ nữ... phải tính toán phân bổ về các trung đội sao cho công bằng, dự lường phương án xử lý các tình huống có thể xảy ra trên đường công tác…
Cán bộ đại đội đã vậy, cán bộ tiểu đoàn như Tiểu đoàn trưởng Phạm Thị Thao còn vất vả gấp bội. Thường thì trong các chuyến vận tải, đại đội trưởng đi trước dẫn đường, thông báo bằng ám-tín hiệu cho đơn vị tiến lên hoặc tìm cách tản ra trú ẩn, chính trị viên đi sau “khoá đuôi”, khi có trường hợp bị sốt, bị đau, bị thương phân công người cáng vào đội phẫu, san hàng để đưa về đích. Trong một chuyến gùi gạo năm 1969, tôi đi khóa đuôi đội hình Đại đội 1, Tiểu đoàn trưởng Phạm Thị Thao đi sau vài mét khoá đuôi đội hình Tiểu đoàn 232. Lúc ấy khoảng chừng 21 giờ, chúng tôi vượt sông Trường đoạn nối 2 xã Xuyên Thanh sang Xuyên Trường (Duy Xuyên, Quảng Nam). Đang mùa khô, lòng sông cạn, mức nước chỗ sâu nhất cũng chỉ ngang ngực. Khi tốp đầu đã qua bên kia sông, tôi mới lội được chừng dăm bảy mét thì bất ngờ một loạt pháo địch dội tới. Một mảnh pháo chém qua bắp đùi, một mảnh găm vào mé sau ngực phải (đến bây giờ tôi vẫn còn sống chung với nó). Tôi khuỵ xuống, kêu khẽ: “Tôi bị thương rồi”. Chị Thao bảo: “Chị cứ bình tĩnh, có tôi đây”. Đội hình phía trước nghe tin dừng cả lại. Lo địch còn tiếp tục nã pháo, Tiểu đoàn trưởng Phạm Thị Thao truyền lệnh cho chị em tiếp tục hành quân rồi một mình cõng tôi sang bên sông. Do bị mất nhiều máu, tôi cứ lả dần đi. Chị Thao xé vội chiếc áo đang mặc trên người mình băng bó vết thương, đưa tôi lên nằm trên một gò đất nhỏ cạnh mấy bụi cây rậm rồi tất tả trở lại bên kia sông đội hai bao gạo của hai chị em đưa sang bên này. Tôi nằm đợi mà lo thon thót, rủi có pháo địch thì một mình chị với hai bao gạo nặng ngót ngét trăm ký biết xoay xở làm răng. Chưa đầy ba mươi phút mà tôi cảm giác như hàng chục giờ trôi qua. Khi chị Thao quay lại, hai chị em ôm nhau mừng đến rơi nước mắt. Rồi cứ thế chị cõng tôi đi khoảng 50 mét lại quay về tăng bo hai bao gạo. Thương chị vất vả, tôi đề nghị: “Chị cứ để tôi ở lại, đưa hàng về trước đi”. Chị bảo: “Lựu yên tâm, hàng tôi không bỏ, người lại càng không”, cứ thế cuối cùng chúng tôi cũng về đến nơi tập kết. Hôm sau, tôi được cáng lên trạm xá điều trị. Nằm viện mà tôi như nằm trên chảo lửa, thương mọi người ở nhà phải cáng đáng phần việc của mình. Chừng hai tuần sau, vết thương mới kéo da non tôi đã nài nỉ xin trở lại đơn vị, gùi hàng cùng chị em.
Gian khổ hiểm nguy không chỉ đến trên đường vận chuyển. Khi ấy hậu cứ của Tiểu đoàn đóng trên núi Hòn Tàu, sau một chuyến gùi hàng trở về, chúng tôi rụng rời trước tin nơi đây vừa trải qua một đợt bom toạ độ, các lán trại bị bom dập tan tành, quần áo tư trang còn sót lại vương trên các cành cây cao. Hôm ấy, hầu hết quân số Đại đội 1 đều đi làm nhiệm vụ, chỉ có hai chị Nguyễn Thị Hiển và Nguyễn Thị Bảy ở nhà lo cơm nước. Hai chị đều quê ở Đại Lộc, Quảng Nam, mới mười tám, hai mươi. Chị Bảy có mái tóc dày, mượt, dài quá thắt lưng. Chị Hiển mắt bồ câu, xinh nhất nhì đại đội. Sáng hôm ấy Hiển cứ một hai xin đi hàng song vì chị đang bị bệnh phụ nữ nên tôi kiên quyết không cho. Hai chị nấp chung một căn hầm. Một quả bom rơi gần đó đã hất mỗi người sang một bên. Khi chúng tôi đào thấy, đầu chị Bảy bị nứt làm đôi còn chị Hiển bị vỡ hết vùng bụng. Chúng tôi nhặt từng phần thân thể của các chị bọc lại trong tấm võng dù, xin được ở Trung đoàn 260 đóng quân gần đó mấy mét vải trắng để niệm rồi chôn hai chị trên gò cao, đầu hướng về phía núi. Mọi người vừa lấp huyệt vừa khóc. Chôn cất xong thì trời đổ mưa. Mưa xối xả như trút. Phân công xong vị trí trú ẩn trong các hang đá cho từng trung đội, tôi cùng đại đội phó Phạm Thị Sen lượm từng cái chén, rửa nồi bắc lửa thổi cơm đem đến từng hang đá phân phát, động viên chị em ăn giữ sức. Sáng hôm sau, mắt ai nấy đỏ mọng, đứng trước hàng quân tôi kêu gọi chị em: “Biến đau thương thành hành động cách mạng, lên đường vận chuyển vũ khí ra chiến trường để trả thù cho chị Hiển, chị Bảy”...
Chia nhau sự sống, chia nhau cái chết, càng trong thử thách tình đồng chí càng khăng khít, sâu đậm. May mắn còn sống trở về đoàn tụ với gia đình sau ngày đất nước thống nhất, những cựu chiến binh Tiểu đoàn 232 hôm nay vẫn thường liên lạc, động viên nhau sống xứng đáng với quá khứ vinh quang, với những đồng đội đã hy sinh xương máu vì sự trường tồn của Tổ quốc thân yêu.
Đỗ Thị Ngọc Diệp