QĐND - Vở kịch “Đại đội trưởng của tôi” của tác giả Đào Hồng Cẩm, khắc họa đậm nét chân dung người cán bộ quân đội không quản khó khăn, gian khổ, hy sinh, với những phẩm chất tiêu biểu được mọi người học tập, làm theo. Trong chuyến công tác tại Nha Trang (Khánh Hòa) mới đây, chúng tôi được gặp Đại tá Trần Văn Thà - nguyên mẫu nhân vật chính trong vở kịch trên, được nghe ông kể chuyện và nghe đồng đội, nhân dân địa phương kể về ông. Chúng tôi nhận ra rằng: Cuộc đời ông đẹp hơn cả trong kịch!

Những chiến công đầu tiên

Phố biển Nha Trang vào ngày nắng đẹp, chúng tôi may mắn gặp Đại tá Trần Văn Thà tại buổi gặp mặt truyền thống cán bộ sĩ quan quân đội cao cấp đã nghỉ hưu. Ông cao to, khỏe khoắn, mái tóc trắng như cước, nụ cười hiền hậu, giọng nói trầm ấm. Theo đề nghị của chúng tôi, ông vui vẻ “lật giở” từng trang “hồi ký” về cuộc đời mình.

Ông sinh năm 1929, quê ở xã Ninh Hưng (Ninh Hòa, Khánh Hòa). Ông bắt đầu theo Việt Minh từ tháng 2-1945; tham gia giành chính quyền ở huyện Ninh Hòa ngày 17-8-1945, ở Nha Trang ngày 19-8-1945. Tiếp đó, ông tham gia hai trận đánh Pháp tại đồi Trại Thủy (Nha Trang). Kể về cảm giác những ngày đầu đánh giặc, ông thật thà:

- Trong trận đánh ở Đồi Trại Thủy, tôi bắn ba phát đạn nhưng không trúng đích vì quá run… Đúng là bắn súng cũng không dễ dàng gì!

Tháng 1-1946, ông vào quân đội. Gần 5 tháng sau, ông tham gia trận đánh quân Pháp khi chúng phản bội Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946. Lần này, ông nổ súng diệt được 1 lính Pháp. Từ đó trở đi ông tham gia hàng trăm trận chiến đấu trong suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên và địa bàn Nam Tây Nguyên. Trận đánh nào, ông cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ...

Từ tháng 5-1965 đến 12-1967, Trần Văn Thà được cấp trên cử làm Đảo trưởng đảo Cồn Cỏ, trực tiếp chỉ huy bộ đội chiến đấu liên tục 930 ngày chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Tại Cồn Cỏ ông đã tham gia đánh 601 trận chống lại máy bay, tàu chiến và biệt kích Mỹ. Ông kể:

- Sau khi nhận bàn giao của người tiền nhiệm, tôi nhận thấy có một số vấn đề chưa hợp lý trong tổ chức lực lượng và phương án tác chiến. Hơn nữa, chiến tranh mới bắt đầu, tình hình chắc chắn còn diễn biến phức tạp, ác liệt và kéo dài. Để đảo hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống, tôi khẩn trương chỉ huy bộ đội tổ chức lại thế trận phòng ngự.

Ở tuổi 84, ông Thà vẫn cần mẫn chữa bệnh cứu người.

Quân số của đảo lúc này khoảng 150 cán bộ, chiến sĩ bao gồm bộ binh, phòng không, pháo binh... chủ yếu được bố trí ở trong lòng đảo. Ông Thà nhận định, bố trí đội hình như vậy rất khó đánh địch đổ bộ đường biển nên đề xuất với trung đoàn và chi bộ ý tưởng của mình. Được sự đồng ý của cấp trên và tập thể, trong một thời gian ngắn ông đã đưa toàn bộ lực lượng ra xung quanh rìa đảo; tổ chức xây dựng trận địa phòng thủ, trận địa bắn chi viện cho đội tàu thuyền chở hàng ra đảo và cả trận địa đánh biệt kích...   

Ông Nguyễn Hữu Tứ, đang sống ở số 5, Trương Văn Ly, TP Phan Thiết (Bình Thuận) - nguyên là Trung đội trưởng pháo cao xạ đảo Cồn Cỏ (người ra đảo chiến đấu trước ông Thà khoảng một tháng) khẳng định: Nhờ cách bố trí lực lượng và tổ chức chỉ huy bộ đội một cách sáng tạo của anh Thà nên đã tạo được yếu tố bí mật, bất ngờ khi đánh địch và giảm được thương vong cho bộ đội. Vì vậy trải qua hàng trăm trận đánh, hứng chịu hàng ngàn tấn bom đạn của địch nhưng đảo vẫn vững vàng. Những năm đó, ông Thà và đồng đội đã lập nên những chiến công lớn, đi vào những thước phim tư liệu và tác phẩm nổi tiếng “Họ sống và chiến đấu” của Nhà văn Nguyễn Khải...

Còn một mình vẫn ở lại chiến đấu

Ngày 14-1-1968, ông Thà được giao cương vị Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 47 (Trung đoàn 270). Suốt 108 ngày đêm chiến đấu quyết tử bên sông Cửa Việt, đơn vị ông chặn đứng sự tiếp tế của Mỹ, ngụy bằng đường sông từ Cửa Việt lên Đông Hà, Tà Cơn, Khe Sanh; phối hợp cùng địa phương đánh chiếm, giữ vững đoạn sông từ chợ Hôm đến ngã ba sông Bồ Điền (Sông Hiếu)... Trận đánh ngày 21-1-1968, Tiểu đoàn 47 đã tiêu diệt 2 máy bay, 6 xe tăng, 5 tàu hộ tống, hơn 300 tên ngụy và 25 tên Mỹ. Địch tuy thất bại nặng nề, nhưng bên ta cũng có 33 cán bộ, chiến sĩ hy sinh (trong đó có 2 phóng viên Báo Quân đội nhân dân là Lê Đình Dư và Nguyễn Ngọc Nhu), 71 người bị thương. Ông Thà nhớ lại:

- Sau 2 ngày chiến đấu, đêm 21-1-1968 Đảng ủy Tiểu đoàn họp, có 3 phái viên cấp trên tham dự. Rút lui, hay ở lại chiến đấu là nội dung chính của hội nghị. Bấy giờ đã có ý kiến đề nghị rút lui, vì cho rằng: Nếu chiến đấu thì phiên hiệu đơn vị sẽ không còn nữa. Tôi không đồng ý như vậy!

Lúc đó ông Thà nhận định: Dù địch đã huy động hơn chục tiểu đoàn và tất cả các phương tiện chiến tranh, nhưng ta đã bắn chìm và tiêu diệt nhiều tàu vận tải, xe tăng, hàng trăm tên địch bỏ xác trước trận địa, số còn lại tháo chạy. Hơn nữa, nếu ta có cách đánh phù hợp, bảo toàn được lực lượng thì sẽ nhất định thắng… Bàn luận suốt 5 giờ đồng hồ, cuối cùng Đảng ủy Tiểu đoàn không đồng ý với đề xuất của ông Thà, rồi biểu quyết 5/6 đồng ý rút quân. Lúc biểu quyết là 23 giờ.

- Tuy không nhất trí với phương án rút quân nhưng đây là quyết định của tập thể Đảng ủy nên tôi phải chấp hành, hạ đạt mệnh lệnh cho bộ đội rút quân. - Ông Thà thở dài.

Khi đơn vị thực hành rút khỏi trận địa khoảng 1km, càng đi tâm trạng ông càng bất an, bức xúc. Bất chợt, ông hét lớn: “Các anh cứ rút ra đi, còn một mình tôi vẫn ở lại chiến đấu”. Chính trị viên Tiểu đoàn Trần Thanh Điệu liền hưởng ứng: “Anh ở lại, tôi cũng ở lại”. Được lời như cởi tấm lòng, ông Thà chạy nhanh lên phía trước hàng quân: “Anh em Tiểu đoàn 47 dừng lại. Thưa anh em! Tôi là Trần Văn Thà, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 47, tôi xin lỗi anh em, biểu quyết rút lui là một sai lầm, cho phép tôi thay mặt Đảng ủy và Ban chỉ huy Tiểu đoàn xin lỗi và tạ tội với anh em… Nhiệm vụ của tiểu đoàn ta chưa hoàn thành, ta không có quyền rút khỏi trận địa. Giờ này tôi không ra lệnh mà kêu gọi anh em: Ai dám hy sinh bên sông Cửa Việt để hoàn thành nhiệm vụ thì ở lại với tôi”.

Rồi ông Thà hỏi: “Có ai là đảng viên xin giơ tay?”. Trong ánh pháo sáng có 38 cánh tay giơ lên trong đó có chính trị viên tiểu đoàn. Ông phấn khởi mang khẩu AK đi trước, toàn tiểu đoàn còn lại hơn 100 cán bộ, chiến sĩ đi theo sau, trở lại trận địa.

Ngày hôm sau (22-1), Tiểu đoàn 47 nổ súng bắn cháy 1 tàu vận tải. Đến 15 giờ, 1 tiểu đoàn ngụy đánh vào trận địa ĐKZ, bộ đội nổ súng đồng loạt từ phía sau lưng địch khiến chúng phải tháo chạy, đơn vị lập tức truy kích địch về tận cảng Cửa Việt. Những ngày tiếp theo, đơn vị được bổ sung quân số, vũ khí, tiếp tục trụ lại trên địa bàn Cửa Việt - sông Hiếu không phải là 10 ngày như dự kiến ban đầu mà kéo dài tới 108 ngày.

Sau này, diễn biến trận chiến đấu ngày 21-1-1968 của Tiểu đoàn 47 đã được Nhà viết kịch Đào Hồng Cẩm đưa vào vở kịch: “Đại đội trưởng của tôi” gây xúc động đối với hàng vạn khán giả.

Suốt đời tự học

Năm 1983, ông nghỉ hưu, trở về đời thường với bao lo toan cuộc sống. Khi nghỉ hưu, hoàn cảnh gia đình còn rất nhiều khó khăn. Ngoài việc được tạm ứng 3 tháng lương, ông không còn tài sản gì khác. Trong khi đó, đất và nhà ở chưa có, vợ liên tục ốm đau, các con còn nhỏ đang ăn học… Thế nhưng, với phẩm chất của người lính can trường, từng dạn dày chiến trận, ông đã không chịu khuất phục trước hoàn cảnh mà tích cực sản xuất, làm thêm để tăng thu nhập, từng bước cải thiện đời sống. Ông đã làm rất nhiều ngành nghề: Từ sản xuất xà phòng, dầu gan cá đến làm sữa chua, bánh kem... Nhờ nỗ lực lao động không biết mệt mỏi nên cuộc sống dần được cải thiện; các con khôn lớn, trưởng thành có công ăn việc làm. Đến khi đó, ông lại trăn trở phải thực hiện bằng được hai việc ông tâm huyết suốt bấy lâu. Đó là “đi tìm” đồng đội và chữa bệnh miễn phí cứu người.

Ông Thà đến với nghề y cũng thật tình cờ, nhưng để trở thành lương y giỏi như hôm nay thì đó là kết quả của sự học cả đời. Năm 1950, ông bị bệnh kiết lỵ khá nặng, đơn vị phải cử đồng đội khiêng ông từ Nam Tây Nguyên về Phú Yên gửi cho mẹ nuôi của ông chăm sóc vì đơn vị không có thuốc chuyên trị. Bấy giờ, đồng đội thấy ông tiều tụy thì hết lòng lo lắng, nhưng mẹ ông bảo “không sao đâu để mẹ chữa trị cho”.

Đúng như lời mẹ nuôi của ông nói, chỉ sau 15 ngày uống thuốc lá, bệnh của ông khỏi hoàn toàn. Ông thưa với bố mẹ, xin được học các bài thuốc chữa bệnh bằng thuốc nam của mẹ. Khi trở về đơn vị, ông đã giúp nhiều anh em khỏi bệnh kiết lỵ, viêm đại tràng, táo bón, đau lưng, ho, rắn cắn… Trong thời gian tham gia chiến đấu, ông phát triển lên các cương vị cán bộ tiểu đoàn, trung đoàn nhưng khi cần ông vẫn tham gia chữa trị bệnh cho đồng đội. Hơn nữa, ở bất cứ đâu, ông đều dành thời gian đọc, học, thực hành để nâng cao tay nghề.

Khi nghỉ hưu trở về địa phương, đến lúc điều kiện kinh tế gia đình khấm khá hơn, giữa năm 1992, ông quyết định khăn gói đi làm “sĩ tử”, thực hiện hoài bão được học tập nâng cao trình độ chuyên môn. Ở cái tuổi 63, ông thi và đỗ vào học Trường Y học Cổ truyền tại quận Phú Nhuận (TP Hồ Chí Minh). Đến tháng 12-1994, tốt nghiệp ra trường, ông tình nguyện ở lại làm không lương tại Bệnh viện Y học Cổ truyền (121B, Hoàng Văn Thụ quận Phú Nhuận, TP Hồ Chí Minh). Tại đây, ông vừa có điều kiện giúp đỡ bệnh nhân nghèo, vừa có môi trường tốt để rèn luyện tay nghề. Ông Thà kể tiếp:

- Làm không lương ở Bệnh viện Y học Cổ truyền được 6 tháng thì tôi phải về Nha Trang vì bệnh tình của vợ. Bà ấy gần như phải nằm một chỗ. Với kiến thức được học và kinh nghiệm thực tiễn, tôi đã chữa lành bệnh cho vợ. Bấy giờ, bà con lối xóm mới hết dị nghị rằng, tôi bị “chập điện” khi đã 63 tuổi mà vẫn khăn gói đi học. Mọi người bắt đầu kéo đến nhờ tôi giúp đỡ, chữa trị bệnh ngày càng nhiều… Và cái nghiệp “làm bác sĩ” không lấy tiền “viện phí” của tôi bắt đầu từ đấy.

(Còn nữa)

Bài và ảnh: TẤN TUÂN-CÔNG THI