(Tiếp theo và hết)

Tại Pác Bó, Hà Quảng, Cao Bằng từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5 năm 1941, Lãnh tụ Hồ Chí Minh với tư cách là đại biểu của Quốc tế cộng sản, đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh gọi tắt là Việt Minh, đổi tên các tổ chức trong mặt trận thành hội cứu quốc. Về xây dựng lực lượng vũ trang, Hội nghị quyết định xây dựng Đội tự vệ cứu quốc Việt Nam. Hội nghị quyết định giao cho Ban Thường vụ Trung ương Đảng gồm các đồng chí Trường Chinh - Tổng bí thư, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt trực tiếp chỉ đạo duy trì và phát triển lực lượng du kích Bắc Sơn, đồng thời cử đồng chí Phùng Chí Kiên, Bế Sơn Cương, Mã Thành Kính, Đặng Văn Cáp, Trần Văn Phấn về giúp Ban chỉ đạo Đội du kích Bắc Sơn và bổ sung lực lượng cho Đội du kích Bắc Sơn.

Tháng 6 năm 1941, Phùng Chí Kiên cùng các đồng chí được giao nhiệm vụ chỉ đạo và tăng cường cho Đội du kích Bắc Sơn. Đồng chí cùng một số đồng chí cán bộ của Đảng từ Cao Bằng trở về Lũng Páy, Lân Táy Bắc Sơn, khu vực đóng quân của Đội du kích Bắc Sơn.

Tại đây, cán bộ, chiến sĩ Đội du kích Bắc Sơn được nghe đồng chí Trường Chinh phổ biến Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8. Để đáp ứng nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, Đội du kích Bắc Sơn đổi tên là Đội cứu quốc quân 1. Đồng chí Phùng Chí Kiên, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng phụ trách quân sự được Lãnh tụ Hồ Chí Minh giao làm chỉ huy trưởng, đồng chí Lường Văn Tri, Thường vụ Xứ ủy Bắc kỳ làm chỉ huy phó. Toàn đội có 37 người, được biên chế thành 3 tiểu đội, vũ khí có 15 súng trường, súng kíp còn lại là dao găm, mã tấu.

Bát hương dùng để cất giấu tài liệu, công văn của Trung ương và 2 chiếc liễn của nhân dân (Vũ Lăng, Bắc Sơn, Lạng Sơn) dùng để đựng cơm nuôi cán bộ từ năm 1940-1941. Thời gian này, đồng chí Phùng Chí Kiên thường xuyên về đây công tác để xây dựng và huấn luyện lực lượng cho Đội du kích Bắc Sơn.

Một số hiện vật gắn với Đội Cứu quốc quân hiện đang được Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam lưu giữ:

- Lưỡi mác: Đội cứu quốc quân đã sử dụng chiến đấu tại Đình Cả, Võ Nhai, năm 1941.

- Bát ăn cơm, liễn, ấm đun nước nhân dân Bắc Sơn sử dụng phục vụ cơm nước cho Đội Cứu quốc quân, năm 1940-1941.

- Chiếc ấm sành của gia đình ông Dương Công Cao ở xã Hương Vũ, Bắc Sơn, Lạng Sơn dùng đun nước phục vụ Đội du kích Bắc Sơn, Đội Cứu quốc quân.

- Chiếc nồi đồng chí Mã Viết Minh, Mã Viết Phấn dùng nấu cơm phục vụ các đồng chí Trung ương ở Khuổi Nọi, Vũ Lễ, Bắc Sơn, năm 1941.

- Súng kíp của ông Hón xã Tân Hưng dùng chiến đấu khi tham gia Đội cứu quốc quân, năm 1941, chiến đấu giết một tên sếp đội đồn Canh Tiến.

Với cương vị chỉ huy trưởng Đội cứu quốc quân 1, đồng chí Phùng Chí Kiên đã đem những kiến thức quân sự được học tập tại Trung Quốc và Liên Xô truyền đạt cho toàn đội và tự vệ, hội viên cứu quốc các tổ chức quần chúng ở châu Bắc Sơn. Những kiến thức đó được cán bộ, chiến sĩ tham dự truyền đạt, phổ biến rộng rãi cho tự vệ và quần chúng cách mạng châu Bắc Sơn, góp phần làm cho phong trào cách mạng ngày càng phát triển rộng thêm.

Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Bắc Sơn, thực dân Pháp tăng cường lực lượng mật thám và bọn tay sai phản động theo dõi hòng đàn áp khủng bố phong trào cách mạng. Bọn địch dùng mọi thủ đoạn đối với nhân dân, chúng hết đe dọa, bắt đóng sưu cao thuế nặng quay sang dụ dỗ, mua chuộc, lập đồn bốt dày đặc, thực hiện chính sách đốt sạch, phá sạch. Chúng còn mở những cuộc tiến công càn quét lớn, có cuộc lên tới 4.000 quân gồm cả lính Pháp, lê dương, lính khố đỏ, lính khố xanh, mật thám vào khu căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai. Bọn địch triệt hạ một số làng, bản, khủng bố, bắn giết các gia đình cơ sở cách mạng và nhân dân, cướp bóc gia súc, phá hoại ruộng nương, dựng trại tập trung nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não của ta hòng “tát nước bắt cá”. Nhưng nhân dân Bắc Sơn đã không nao núng trước kẻ thù, vẫn bí mật nhường cơm sẻ áo, tiếp tế lương thực, thực phẩm nuôi giấu bảo vệ cán bộ của Đảng, ủng hộ Cứu quốc quân chống địch khủng bố, duy trì lực lượng và giữ vững phong trào cách mạng.

Nghị quyết Cứu quốc quân (phía trên có một số dòng chữ ghi chép về đồng chí Phùng Chí Kiên). Ảnh: THU HƯƠNG

Trước tình hình địch truy lùng ráo riết, Trung ương Đảng quyết định phân công đồng chí Phùng Chí Kiên và Lường Văn Tri ở lại đấu tranh chống địch càn quét, khủng bố, giữ vững phong trào, các đồng chí Trung ương khác rút khỏi vòng vây của địch từ Bắc Sơn xuống Võ Nhai để đến vùng an toàn. Đồng chí Phùng Chí Kiên đã họp ban chỉ huy, cử một tổ cứu quốc quân đi bảo vệ các đồng chí Trung ương, chuẩn bị lực lượng sẵn sàng chống địch khủng bố, càn quét và bảo vệ căn cứ.

Ngày 25 tháng 7 năm 1941, địch huy động lực lượng lớn, có sĩ quan Pháp chỉ huy, chia thành 4 hướng tiến công vào Mỏ Pia để lùng bắt các đồng chí Trung ương và Ban chỉ huy Đội cứu quốc quân trước đó đóng tại đây. Khi địch tiến công vào thì các đồng chí Trung ương đã sớm rút khỏi Lán Táy đến Khuổi Nọi. Bọn địch điên cuồng đàn áp nhân dân trong vùng, nhiều nhà cửa của đồng bào bị đốt phá, nhiều cơ sở cách mạng bị vỡ.

Trước những cuộc tấn công dồn dập của quân địch, dưới sự chỉ huy của đồng chí Phùng Chí Kiên và Lường Văn Tri, Đội cứu quốc quân đã chiến đấu anh dũng, gây cho địch nhiều thiệt hại như trận Giá Huần xã Vũ Lễ. Thế nhưng kẻ thù liên tục càn quét, khủng bố, lực lượng so sánh giữa ta và địch chênh lệch, một số cơ sở của ta bị vỡ, Ban chỉ huy Cứu quốc quân chủ trương rút hai tiểu đội ra khỏi Bắc Sơn tiến lên vùng biên giới phía Bắc, duy trì lực lượng, xây dựng căn cứ. Còn một tiểu đội bí mật ở lại Bắc Sơn hoạt động chống địch khủng bố, giữ vững cơ sở cách mạng. Thực hiện chủ trương đó, tháng 8 năm 1941, lực lượng cứu quốc quân chia làm hai cánh rút khỏi Bắc Sơn. Cánh thứ nhất gồm các đồng chí Hoàng Văn Thái, Đặng Văn Cáp, Dương Công Bình, Hoàng Văn Hán, Hoàng Như Ý… do đồng chí Hoàng Văn Thái và Đặng Văn Cáp chỉ huy. Cánh thứ hai gồm đồng chí Phùng Chí Kiên, Lường Văn Tri, Hà Khai Lạc, Bế Sơn Cương do đồng chí Phùng Chí Kiên và Lường Văn Tri chỉ huy.

Ngày 10 tháng 8 năm 1941, cánh quân của đồng chí Phùng Chí Kiên rút khỏi Khuổi Nọi qua các xã Bắc Sơn, Hữu Vĩnh, Vĩnh Đống, châu Bắc Sơn rồi đến châu Na Rì, Ngân Sơn - Bắc Kạn để lên Cao Bằng. Ngày 19 tháng 8 năm 1941, cánh quân đến Pò Kép xã Văn Học, châu Na Rì thì bị phục kích. Dưới sự chỉ huy của đồng chí Phùng Chí Kiên các chiến sĩ cứu quốc quân đã chiến đấu đánh trả quyết liệt mở đường tiến. Nhưng con đường lên Cao Bằng đã bị bọn địch vây chặt, ngày 22 tháng 8 năm 1941, khi cánh quân của đồng chí Phùng Chí Kiên đến làng Khau Pàn, xã Bằng Đức, châu Ngân Sơn, Bắc Kạn bị địch phục kích. Đồng chí Phùng Chí Kiên chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, bắn chặn địch để đồng đội thoát khỏi vòng vây. Đồng chí bị thương và bị địch bắt. Không thể lay chuyển được người cộng sản, người chỉ huy kiên cường của Đội cứu quốc quân, bọn địch tra tấn, hành hạ và chặt đầu đồng chí bêu ở cầu Ngân Sơn (ngày 22 tháng 8 năm 1941).

Những hiện vật Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam lưu giữ trưng bày về Đội du kích Bắc Sơn, Đội cứu quốc quân I thể hiện phần nào cuộc sống, chiến đấu và tinh thần quả cảm của cán bộ, chiến sĩ của đội trong đó có đồng chí Phùng Chí Kiên - một nhà cách mạng, một tài năng quân sự kiệt xuất của Đảng và nhân dân ta.

Năm tháng qua đi nhưng Đội cứu quốc quân và tên tuổi của đồng chí Phùng Chí Kiên vẫn được đồng đội và nhân dân ghi nhớ bởi đó là một trong những đội quân tiền thân của Đảng, là những cống hiến to lớn của đồng chí đối với Đảng ta, quân đội ta trong những năm chông gai nhất của cách mạng Việt Nam. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, đồng chí Phùng Chí Kiên đã được tiếp cận với Lãnh tụ Hồ Chí Minh, được Người huấn luyện, đào tạo trở thành cán bộ cách mạng, một chỉ huy quân sự kiệt xuất đầu tiên của Đảng. Đồng chí đã được Nhà nước tuyên dương công trạng, được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 89/SL truy phong hàm tướng đầu tiên, ngày 23 tháng 9 năm 1947. Năm 1994, đồng chí được Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng Huân chương và bằng Huân chương Chiến công hạng ba.

Ngày 24 tháng 6 năm 2008, anh Nguyễn Văn Quang (cháu của ông Nguyễn Mỹ, em ruột của đồng chí Phùng Chí Kiên) đã trao cho Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam bằng, huân chương và những kỷ vật: Mâm gỗ, đĩa, nậm rượu, lọ sành là những đồ dùng sinh hoạt của gia đình cụ Nguyễn Khoản và Trần Thị Cúc (cha và mẹ của đồng chí Phùng Chí Kiên).

Thiếu tướng LÊ MÃ LƯƠNG