Kỳ III:  Nghề nuôi cá bè

QĐND - Buổi tối, khu nuôi cá bè ở đảo Phú Quý rực rỡ hoa đèn như một đô thị nổi trên mặt biển. Nói như Chính trị viên Nguyễn Tuấn Hải, thì đó là một “Thiên đường của cá”. Nhưng tôi nghĩ, nó còn là thiên đường dành cho những ai yêu biển, đảo, mang khát vọng cháy bỏng về một Phú Quý phát triển, thịnh vượng và xinh đẹp. Nhưng không thể đến “phố nổi” trên biển lúc này. Tôi khắc khoải chờ trời sáng trong tiếng gió rít và giật liên hồi.

Bình minh trên Cù Lao Thu huyền ảo, thơ mộng và lãng mạn. Đỏ hồng như một cục than khổng lồ, mặt trời từ từ nhô lên khỏi mặt đại dương lấp lánh. Biển lóng lánh chao nghiêng như có hàng triệu tấm gương lấp lánh đủ màu được ghép trên ngọn sóng. Đâu đó ở những thôn xóm bình yên trên đảo, vẫn còn tiếng gà gáy trầm bổng hòa vào tiếng gió giật phần phật. Thiếu tá Trần Anh Linh chở tôi đến UBND huyện rất sớm. Chẳng cần những thủ tục rườm rà, anh Đặng Văn Phú – Phó trưởng phòng Kinh tế huyện Phú Quý nắm lấy tay tôi nói: “Anh em mình ra các bè cá ngay. Ra muộn bà con sẽ về hết, chỉ còn lại những người trông coi thôi”.

Cho cá ăn. Ảnh: Phú Hưng

Chiếc xe do Bí thư, kiêm Chủ tịch UBND huyện Huỳnh Văn Hưng điều động chở chúng tôi xuyên gió lao đi. Chỉ 12 phút, khu nuôi cá bè của người dân đảo Phú Quý đã hiện ra trước mắt. Tôi đã từng ngồi trên máy bay trực thăng để ngắm khu nuôi cá lồng. Ở độ cao 300m nhìn xuống, các bè nuôi cá như những tấm thảm hoa màu ngọc bích. Khi trời tắt nắng, nó lại giống như những ô ruộng muối ở ngoại ô thành phố Phan Thiết, hay vùng Ninh Hải, Cà Ná của tỉnh Ninh Thuận. “Cởi giày ra mới xuống xuồng được” – Anh Phú nói với mọi người. Chúng tôi vừa xắn quần quá đầu gối xong thì một chiếc xuồng nhỏ đã cặp vào bờ cát. Phải khá vất vả, tôi, anh Phú và Thiếu tá Linh mới nhảy được lên xuồng khi nó đang chao đảo vì sóng lớn. Xoay trái, nghiêng phải cả dăm phút, người lái có thân hình lừng lững như hộ pháp mới điều khiển chiếc xuồng ra được khỏi bờ. Anh Phạm Quang Phong vừa lái xuồng, vừa nói to: “Bám chặt không là rớt xuống biển đó”. Tôi ngồi giữa xuồng, hai tay vịn chặt vào thành cố ngắm nhìn khu nuôi cá như đang nhảy múa trước mặt. Ngất ngưởng, uốn éo qua những “dãy phố” cá bè hơn 5 phút, chúng tôi đến với những ô cá của gia đình anh Phong. Ở đây ai cũng mến khách, ngay cả 2 chú chó trên bè cũng chạy ra mừng đón mọi người. Đứng trên bè cá mà chúng tôi vẫn phải dạng hai chân ra để giữ thăng bằng. Bè cá chao đảo như múa ba lê trên biển. Sau màn chào hỏi thú vị, những người nuôi cá lại mải mê với công việc của mình.

Hai chàng trai chừng 18, 20 tuổi cắt cá trích ra làm nhiều khúc để làm thức ăn nuôi, đều và nhanh như ông thợ cắt tóc lành nghề vậy. Trên bè có 32 ô nuôi cá, mỗi ô rộng 9m2. Ở đây chủ yếu nuôi cá mú và cá bốp. Anh Phong có 12 ô, những ô còn lại là của anh Đỗ Văn Rạng và Võ Vân. Trông thế mà ô cá người dân phải đầu tư mất 8 triệu đồng để mua gỗ, mua lưới và thuê người dựng. Nghề nuôi cá lồng trên biển không vất vả bằng nghề đánh bắt ngoài khơi, nhưng lại phải tỉ mỉ, kinh nghiệm và cần vốn lớn. Anh Phong hiện có 500 con cá mú đỏ và 1.000 con cá mú cọp. Cá giống mú đỏ phải mua mất 120.000 đồng/con, còn cá giống mú cọp là 65.000 đồng/con. Nuôi cá đến lúc thu hoạch, tỷ lệ hao hụt chiếm tới 30%, nhưng vẫn có lãi cao. Như gia đình anh Phong, năm 2010 thu hoạch được gần một tấn cá mú, trừ các khoản chi phí còn lãi được 280 triệu đồng. Anh kể: “Năm ngoái, giá không đắt bằng bây giờ, chỉ 340.000 đồng/kg mú cọp và 480.00 đồng/kg mú đỏ bán tại bè. Bây giờ thì đắt hơn nhiều”. Thức ăn của cá chủ yếu là viên chế biến mua ở đất liền và cá trích. Các viên thức ăn trước khi vãi xuống ô cá phải ngâm từ 10 đến15 phút, còn cá trích chỉ cần cắt nhỏ tùy theo loại cá lớn nhỏ là được. Cá mú con sau khi được thả xuống bè chỉ bé bằng ngón tay út, sau từ 15 đến 18 tháng, chúng mới nặng được một cân. Đó cũng là thời gian cá sẽ được xuất bè.

Tắm cá. Ảnh: Phú Hưng.

Anh Đỗ Văn Hớn, một người nuôi cá bè đầy kinh nghiệm chia sẻ: “Nuôi cá mú trong 4 tháng đầu phải được chăm sóc rất đặc biệt. Vì đây là thời gian cá còn yếu, dễ mắc các loại bệnh như nấm, bong vẩy, biếng ăn… Ngoài việc cho cá ăn đầy đủ, phải thường xuyên tắm cho chúng theo thời gian, cá nhỏ 2 ngày tắm một lần, còn cá lớn 6 ngày tắm một lần”. Đi rất nhiều nơi nuôi trồng thủy sản, đây là lần đầu tiên tôi nghe được hai từ “tắm cá”. Thì ra, việc chăm sóc cá mú cũng chẳng khác gì nuôi những đứa trẻ. Những con cá luôn đắm mình trong làn nước biển, cũng phải tắm rửa sạch sẽ như người. Anh Hớn rủ tôi ra ô nuôi để “biểu diễn” kỹ thuật tắm cá. Lưới dưới ô từ từ được kéo lên. Những chú cá mú đỏ nặng chừng 5 lạng dần dần co cụm lại với nhau. Xong đâu đấy, anh Hớn chuẩn bị một thùng nước ngọt rồi pha vào đó một lượng thuốc kháng sinh chống khuẩn. Đợi ít phút cho nước lắng đọng, anh dùng vợt múc cá dưới ô lên và đổ vào thùng nước. Hai phút sau, cá ngâm trong thùng nước ngọt được đưa ra và thả vào một ô cá khác. “Có một con bị nấm” – Cậu nhỏ phụ việc nói và chỉ tay xuống ô. “May quá, hôm nay tắm kịp thời, nếu không nấm sẽ lan ra nhiều con nữa” – Anh Hớn xuýt xoa. Con cá bị nấm lập tức được hớt bỏ lên cạn. Cứ như vậy, nửa tiếng đồng hồ, ô nuôi gần 100 con mú đỏ đã được “tắm” xong.

Phía trước chòi canh cá, anh Phong cầm cái vòi nước phun xối xả vào các tấm lưới. “Vệ sinh ô nuôi đấy” – Anh Phong nói. Những tấm lưới này sau khi phun nước sạch sẽ, được phơi khô và dùng gậy đập vào cho bong hết rác và bụi bám rồi mới hạ xuống. Chúng tôi cùng anh Phong cho cá mú ăn. Đi trên bè cá mà mấy lần Thiếu tá Linh suýt bị ngã vì mất thăng bằng. Tôi bắt chước anh Phong là khi bè bồng lên thì lên gân chân, còn khi bè thụt xuống phải thả lỏng dễ di chuyển. Thấy bóng người, đám cá đang đói nhao lên. Những khúc cá trích, viên chế biến vừa chạm mặt nước, liền bị lũ cá đớp gọn. Nhìn đàn cá búng nước rào rào, mà cứ ngỡ như cả vùng biển quanh Cù Lao Thu đang chuyển động, lớn lên. Tiếng cá quẫy dội vào lòng người, hòa vào sóng nước một niềm vui, niềm hạnh phúc khôn tả. Trước đây, những người nuôi cá bè ở đảo Phú Quý đa số là ngư dân “có hạng”. Nhưng họ nói là chưa thực sự có duyên với công việc lang thang khắp đại dương. Anh Phong cũng vậy. Đã bao lần anh cùng mọi người vượt sóng lớn đi đánh bắt cá ngoài trùng khơi, mấy lần bị lạc sang cả vùng biển của Phi-líp-pin, In-đô-nê-xi-a, rồi những lúc máy ghe trục trặc suýt bỏ mạng giữa đại dương… Sau những lần thoát khỏi tử thần, anh Phong quyết định bỏ khơi vào bờ nuôi cá. Chị Ngô Thị Quân - vợ anh Phong hiện là Phó bí thư Đảng ủy xã Tam Thanh ủng hộ chồng quyết liệt. Phần vì chị muốn không còn nỗi lo mỗi khi chồng ra khơi, phần vì nghề nuôi cá mú đang mang lại hiệu quả kinh tế cao. Thế là bao nhiêu vốn liếng theo anh Phong ra bè cá hết. Để rồi hôm nay, gia đình anh đang cùng 108 cơ sở nuôi cá lồng nơi đây thi nhau làm giàu cho mình và cho địa phương.

Kỳ I: “Cưỡi sóng” ra đảo ngọc

Kỳ II: Chân dung những người giữ đảo

Kỳ IV: Những tấm lòng từ mẫu

Bút ký của LÊ PHI HÙNG