Kỳ I: “Cưỡi sóng” ra đảo ngọc
QĐND - Chiếc tàu sắt chở khách mang tên “Bình Thuận-18” từ từ rời khỏi cảng cá Phan Thiết để đến đảo Phú Quý. Đi được chừng 2 hải lý nó bỗng chao đảo dữ dội. Nhìn qua khung cửa sổ hoen gỉ, tôi cảm giác như sắp phải úp mặt xuống một đống bọt xà phòng trắng xóa. Phóng tầm mắt ra phía xa hơn, những con sóng bạc đầu cao gần 3m thi nhau đổ xô lại. Biển như nghiêng sang bên phải, rồi lại ngả sang bên trái...
Trước khi tới thành phố Phan Thiết, tôi cứ nghĩ là mình sẽ được đi trên con tàu cao tốc, hay ít ra là tàu trung tốc để không phải bị “hành” khổ sở trên quãng đường 56 hải lý. Nhưng mấy ngày nay, biển toàn sóng cấp 7. Tàu trung tốc Phú Hưng hôm trước đi được nửa đường phải quay trở lại, còn chiếc tàu cao tốc Hoàng Phúc-1 hỏng máy nằm phơi nắng hai, ba tháng nay rồi. Những hành khách bị lỡ chuyến tàu trung tốc phải vất vả lắm mới mua được tấm vé đi trên chiếc tàu “già” Bình Thuận-18. Thế mà anh Huỳnh Văn Hải, nhà ở xã Ngũ Phụng, huyện Phú Quý vẫn hớn hở: “Hên quá chú ơi. Ngày mai tôi vẫn kịp về dự đám cưới của đứa cháu ruột”.
Anh em ở Phòng Chính trị Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Thuận mua được cho tôi chiếc vé ngồi ở phòng số 7. Căn phòng rộng chừng 6m2, có 3 cái ghế đệm bạc phếch để cho 12 người đang ngồi, nằm la liệt. Tôi chột dạ: “Nếu không kiếm được cái giường nằm thì nôn là cái chắc”. Chẳng ai trong phòng để ý đến tâm trạng của tôi, họ rôm rả nói chuyện với nhau về những chuyến đi biển xa, về khu đất mới ở thị trấn bán cho dân xây nhà lầu, về những lồng cá bè ở xã Long Hải, Tam Thanh, về công trình điện gió sắp được khởi công… Hình như việc “cưỡi sóng” như thế này đối với người Phú Quý đã thành thói quen. Đang chuẩn bị sẵn sàng “chịu trận” khi tàu đi trên sóng dữ thì một chàng trai đến kéo tay tôi: “Mời anh qua phòng số 4 nghỉ trên giường của em”. “Nhưng…”. “Em là Phương, nhân viên tài chính của Ban chỉ huy quân sự huyện Phú Quý”. Tôi thở phào, ra khỏi căn phòng ngột ngạt và lạc vào một dãy ngổn ngang, bề bộn khác. Hơn 20m hành lang của con tàu bị ngăn chặn bởi những túi hàng hóa và hàng chục người đứng ngồi ngả nghiêng. Chao ơi, sao mà nó giống cảnh những chuyến tàu chợ chạy từ Hà Nội lên Lạng Sơn, hay Lào Cai những năm 80, 90 của thế kỷ trước đến thế.
 |
| Người dân trên đảo Phú Quý đón người thân từ đất liền ra. Ảnh: Phú Hưng. |
Căn phòng mới có 4 chiếc giường, hai cái tầng trên, hai cái tầng dưới. Ở con tàu này, phòng số 4 có thể được coi là hạng “VIP”. Tôi nằm ở tầng trên. Phía đối diện là một anh cán bộ ở tỉnh Bình Thuận ra đảo công tác, phía dưới là một cụ già chừng 75 tuổi tên Huỳnh Hai và một cô gái ngoài đôi mươi. Tất cả lặng lẽ, bình thản như họ đang ngồi trên một chiếc xe buýt chạy trong đường nội thành của Phan Thiết vậy. Chắc biết tôi là người ít khi đi tàu ra đảo, anh cán bộ tên Hưng bắt chuyện: “Anh đi công tác hay đi du lịch”. “Cả hai” – Tôi mỉm cười. “Hôm nay sóng to đấy, nếu không quen phải chuẩn bị mấy cái bịch ni-lông để ói”. Ở phía dưới, cụ già ngồi dậy nhờ tôi xoay cái quạt tường về phía mình cho khỏi nóng. Cụ thở dài: “Biết bao giờ mới có tàu to, mới có máy bay ra Phú Quý đây”. Câu nói của cụ bị gió biển cuốn phăng đi.
Càng ra xa bờ, biển càng vật vã. Những cột sóng lừng lững, cong mình húc cái đầu bạc trắng vào mạn tàu. “Rào, rào”. Hạt nước bắn tơi tả vào hành lang, vào các khoang chở khách. Đám thanh niên đang ngồi chơi ngoài cửa phòng số 4 hét toáng cả lên: “Chu cha. Ướt hết đồ rồi”. Đâu đó trên cái nơi hỗn độn ấy có tiếng nôn ọe, tiếng rên hừ hừ của những người say sóng. Cô gái nằm ở tầng dưới cũng vội vã mở chiếc túi ni-lông ra để đơm vào miệng. “Ợ..ợ..” – mắt thiếu nữ nhắm tịt, nước mắt chảy ra giàn giụa, người giật lên, giật xuống. Ông già Hai vịn vào thành giường để sang giúp cô gái lau mặt… Tiếng trò chuyện ngày càng thưa dần, nhỏ dần. Thay vào đó là tiếng gầm gào của biển và tiếng lắc lư, cót két của con tàu. Cụ Hai đã có hơn 40 năm đi biển, nên sóng cấp 6, cấp 7 chẳng có nghĩa lý gì. “Chú bộ đội có say sóng không?” – Cụ hỏi tôi. “Dạ. Con vẫn chịu được”. “Ra Phú Quý nó khổ thế đấy!”.
Nghe nói trước đây có một số thầy, cô giáo trong đất liền được điều động ra đảo công tác. Đi tàu mất hơn 10 giờ mới tới nơi, có người đã ngất xỉu ở trên tàu. Hơn một nửa số còn lại khi lên bờ bị say đất, nằm ba, bốn ngày sau mới hoàn hồn. Ngay cả một số anh bộ đội, công an ra Phú Quý, cũng bị ói ra “mật xanh, mật vàng”. Một hành trình “lên bờ, xuống ruộng” dài cả chục tiếng đồng hồ làm không ít người ngại đi phép, đi công tác. Cụ Hai có người cháu trai bị kẹt ở Phan Thiết dịp trước Tết Nguyên đán Tân Mão. Đó là anh Huỳnh Văn Khôi. Khôi là sinh viên của Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh. Đáng lẽ ra, anh về đảo để đón xuân với gia đình từ ngày 26-1-2011(tức là ngày 23 tháng Chạp), nhưng biển sóng trên cấp 7, cấp 8 làm cho những chiếc tàu chở khách cũ kỹ và nhỏ bé không tài nào xuất bến được. Thuê nhà nghỉ đến ngày 30-1, Khôi cùng 500 người dân Phú Quý khác, trong đó có Bí thư huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện Huỳnh Văn Hưng vẫn bị kẹt ở Phan Thiết. Người ngoài đảo khắc khoải đợi người thân trong đất liền trở về sum họp, còn người ở đất liền thì như ngồi trên lửa. Sáng nào cũng có khoảng 300 người kéo nhau đến cảng cá Phan Thiết hỏi tàu. Càng hỏi lại càng đau đáu, càng buồn rười rượi. Một số người liều đã liên hệ với những chiếc tàu câu cá để về đảo, dù đường đi đầy hiểm nguy và phải mất từ 12 đến 15 tiếng đồng hồ. Trong khi hàng trăm con người chơi vơi, thất vọng, thì chiếc tàu quân đội CQ-03 do Bộ tư lệnh Quân khu 7 điều từ Thành phố Hồ Chí Minh ra như mang mùa xuân về.
“Sóng lớn, phải đi nhờ tàu câu là chuyện bình thường” – Vẫn là tiếng cụ Hai lẻ loi. Cụ kể, mùa gió năm nào cũng có nhiều người phải đi tàu câu vào bờ. Đó là những cán bộ, bộ đội đi công tác gấp và người ốm. Bảo người ốm nằm trên tàu câu đi trên sóng cấp 7, cấp 8 thì ít ai tin, thế mà ở đảo Phú Quý lại là chuyện rất sinh động. Nhà chị Nguyễn Thị Mai ở xã Tam Thanh có chồng bị viêm loét dạ dày nặng. Chị đã đưa anh đến khám, chữa bệnh tại bệnh viện trên đảo. Bác sĩ bảo: “Anh ấy bệnh khá phức tạp. Chị phải đưa vào Thành phố Hồ Chí Minh để phẫu thuật, nếu chậm 10 ngày nữa sẽ rất nguy hiểm”. Hơn 3 ngày, các con tàu chở khách không được xuất bến vì sóng cả. Chị Mai đứng ngồi không yên. Cuối cùng, gia đình quyết định đưa anh đi trên chiếc thuyền câu để về Phan Thiết. Con thuyền này đi lúc nửa đêm, đến gần chập tối hôm sau mới cập bờ. Chồng chị Mai trên thuyền ói mửa liên tục. Có lúc anh đờ người ra, mắt trắng dã. Ngay đêm đó anh được cấp cứu kịp thời, hai ngày sau bệnh viện Chợ Rẫy mổ cắt đi chỗ dạ dày bị viêm loét nặng. Chồng được cứu sống mà chị Mai vẫn rùng mình mỗi khi nghĩ lại hành trình vượt biển vào đất liền…
Con tàu có vẻ bớt lắc hơn. Có một vài âm thanh báo hiệu tin nhắn trong điện thoại di động vang lên. “Sép té kẻng” (sắp tới cảng) – tiếng một cô gái ngoài hành lang cất lên. Giọng của người dân Phú Quý dù nói rất khó nghe, nhưng tôi lại thấy vui vui trong lòng. Bước ra khỏi căn phòng chật chội nhìn về hướng đông, một dải đất hình con cá thu khổng lồ đã tràn vào ánh mắt. Và cũng có lẽ vì thế mà đảo còn được gọi là Cù Lao Thu. Nắng ngập tràn Phú Quý. Biển trở lại màu xanh ngọc bích và lộng lẫy đến mê hồn. Trên bến cảng, có đến vài trăm người đang đứng đợi người thân trở về. Ôi con tàu. Dù nó có cũ kỹ, dặt dẹo đến mức nào, giờ đây tôi và tất cả hành khách chuẩn bị đặt chân lên đảo phải hàng ngàn lần cảm ơn nó. Cảm ơn những thủy thủ đã giúp mọi người “cưỡi sóng” về Cù Lao Thu. Dưới cảng, tôi nhận ra Chính trị viên Nguyễn Tuấn Hải, Tham mưu trưởng Trần Văn Năm của Ban CHQS huyện Phú Quý đang đứng đón. Phú Quý ôm tôi vào lòng. Phú Quý gợi mở bao cảm xúc dạt dào và lắng đọng…
Kỳ II: Chân dung những người giữ đảo
Bút ký của LÊ PHI HÙNG