QĐND - Tôi được cấp trên điều về Báo Quân đội nhân dân đầu tháng 2-1968. Đó là vào thời điểm cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ diễn ra rất ác liệt ở miền Bắc nước ta.

Từ khi mặc áo lính, tôi luôn xác định người lính là phải ra chiến trường. Lòng mong mỏi của tôi từ lúc đặt chân đến tòa soạn là làm phóng viên quân đội thì phải bám sát các đơn vị chiến đấu, nhưng mãi tới tháng 8-1968, nghĩa là 6 tháng sau, tôi mới được cấp trên cử vào chiến trường Quân khu 4. Lúc đó, máy bay Mỹ oanh tạc rất ác liệt trên khắp cả miền Bắc, đặc biệt là Quân khu 4. Địa bàn Quân khu 4 cũng rất lạ với tôi, vì vậy tôi được anh Nguyễn Đình Quýnh đi kèm. Anh quê ở Hà Tĩnh và đã công tác ở Báo Quân đội nhân dân lâu năm.

Chúng tôi đạp xe từ Hà Nội. Anh Quýnh đi chiếc xe đạp nữ, nhiều đoạn đường phải vác xe nên rất trở ngại. Anh Quýnh là bộ đội chống Pháp. Thân hình anh gầy còm, thấp bé, bởi thế qua những đoạn khó, tôi đều hỗ trợ anh. Tôi rất nhớ đoạn đường chúng tôi qua hai huyện Can Lộc và Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh). Để tránh máy bay oanh tạc nên sau khi ăn cơm lúc bốn giờ chiều thì chúng tôi lên đường. Hai anh em chỉ đạp xe được khoảng 3 cây số là bắt đầu đẩy xe, đi một đoạn nữa thì chúng tôi đành phải cõng xe, xắn quần trên gối để lội bùn. Mỗi người đều phải đeo ba lô quần áo và khoác thêm bao gạo 7 ngày ăn. Anh Quýnh lội một đoạn thì sa lầy gần đến háng. Tôi vội vàng đỡ anh. Trước hết là lấy bao gạo trên vai anh. Chúng tôi đã đi được hơn hai tiếng đồng hồ. Trời tối hẳn, tôi hỏi anh Quýnh:

- Mình còn đi khoảng bao lâu nữa?

- Chắc phải 3-4 tiếng đồng hồ nữa thì mới tới nơi trú chân.

Đêm đã về khuya, nhưng thỉnh thoảng chúng tôi vẫn gặp các đơn vị xung phong và dân quân đi cứu đường. Họ cười nói vui như đi hội. Thỉnh thoảng anh Quýnh được các cô thanh niên xung phong khiêng xe giúp qua đoạn đường lầy. Anh là người Hương Khê, Hà Tĩnh nên giọng nói Hà Tĩnh dễ hòa với nhau.

Chúng tôi vượt qua đoạn đường lầy sau 6 giờ đồng hồ. Thấy một ánh đèn le lói cách mặt đường khoảng 500m, anh Quýnh liền nói với tôi:

- Chú mày ơi, ta vào đây nghỉ nhờ để mai đi tiếp.

Tôi tán thành ngay. Sau khi tắm rửa và gột quần áo xong, anh em chúng tôi mỗi người làm một nắm cơm ăn với ruốc mặn, rồi lăn ra ngủ rất say. Mãi đến khi nghe tiếng bom do máy bay địch ném ở phía đèo Ngang, thì chúng tôi đều thức. Hai anh em định chạy đi tìm hầm trú ẩn, nhưng vợ chồng chủ nhà nói:

- Chú và anh không phải tránh đâu. Nhà của tôi đã được dây leo phủ kín. Hơn nữa, nhà của tôi làm nửa chìm, nửa nổi. Nó cũng là cái hầm trú ẩn rồi.

Vượt qua đèo Ngang lúc chiều gần tối, rồi vượt qua phà Ròn và sông Gianh. Đoạn đường chúng tôi đi lúc này có vẻ thuận lợi hơn nhiều.

Phóng viên TTX Việt Nam ghi lại những hình ảnh của cuộc chiến 12 ngày đêm năm 1972. Ảnh tư liệu/internet.

Sau 13 ngày đạp xe từ Hà Nội, chúng tôi đến Tỉnh đội Quảng Bình. Làm việc với Ban Tuyên huấn Tỉnh đội, Ban Tuyên huấn viết giấy giới thiệu cho chúng tôi đến các đơn vị và địa phương lấy tài liệu. Cẩn thận hơn, họ cử anh Văn Đình Đồng, là thông tin viên lâu năm của Báo Quân đội nhân dân, cùng đi với chúng tôi về thẳng xã Võ Ninh ở bên kia phà Quán Hầu.

Xã Võ Ninh (Quảng Bình), nhà dân ở hai ven đường số 1. Hầu hết nhà cửa của bà con đều bị địch đánh bom làm hư hỏng. Ở Võ Ninh, bà con thực hiện khẩu hiệu “Xe chưa qua, nhà không tiếc”. Vì vậy, hầu hết các gia đình mà nhà bị hư hỏng đều dỡ lấy ván đem ra mặt đường lót cho xe đi. Có nhiều nhà còn nguyên vẹn vẫn dỡ cánh cửa, rồi đẵn cây cối trong vườn mang ra cứu đường.

Cách đây nhiều tháng, các cơ quan đầu não của xã Võ Ninh đều sơ tán lên động Cát ở phía biển để tránh bom, đạn.

Thời chiến, các đồng chí lãnh đạo bận công việc, nên chúng tôi phải chờ đợi mất khá nhiều thời gian. Sau mấy ngày chúng tôi cũng làm việc được với Bí thư Đảng ủy xã Đặng Văn Thường. Đồng chí Bí thư Đảng ủy tận tình đưa chúng tôi đi gặp hết các cơ quan đoàn thể và ra cả trận địa pháo cao xạ của du kích xã Võ Ninh. Trận địa được trang bị 4 khẩu 14,5mm. Chính trị viên trung đội Nguyễn Thị Lương cho chúng tôi biết:

- Trong mấy năm qua, chị em chúng tôi đã đánh hàng chục trận, bắn rơi 3 máy bay.

Chính trị viên Lương chỉ tay ra phà Quán Hầu cách trận địa khoảng hơn một cây số. Cô nói tiếp:

- Bọn máy bay Mỹ liên tục đổ bom, đạn xuống đây để hòng cắt đứt mối giao thông huyết mạch vào chiến trường của quân đội ta. Bởi vì thế, chúng tôi phải bảo vệ bằng được nơi này.

Cô Lương bỗng nói giọng bùi ngùi:

- Mới rồi, bọn Mỹ đã ném bom giết hại mẹ Nguyễn Thị Suốt ở phía hạ lưu phà Quán Hầu.

Anh Quýnh động viên cô Lương và chị em trong trung đội:

- Trong trận chiến đấu ác liệt này, thì bất cứ nơi đâu cũng có đồng đội, đồng bào ta hy sinh. Đó là điều tất yếu, hy sinh để chiến thắng quân thù, để giành độc lập tự do.

Hai anh em chúng tôi ở lại làm việc với xã Võ Ninh 3-4 ngày. Chúng tôi rất thông cảm với hoàn cảnh thiếu thốn của địa phương. Hai anh em còn bao nhiêu gạo mang theo đều nộp cho chị cấp dưỡng xã. Nhưng số gạo cũng chỉ được một ngày, hôm sau anh em lại ăn cháo loãng với cà pháo muối và mấy củ khoai lang chỉ bằng ngón tay. Một ngày có một bữa như vậy, nên cả hai đều đói hoa cả mắt. Thế rồi đêm sau, tôi nảy ra sáng kiến rủ anh Quýnh cùng đi ra đường vẫy xe ô tô xin gạo của anh em bộ đội. Cuộc đi xin hôm đó cũng chỉ được 3 cân. Chúng tôi được cấp dưỡng nấu cho một bữa, còn ít gạo chúng tôi lại đem nộp cho chị cấp dưỡng. Sau chuyến đi đó, tôi về viết bài đăng báo.

Ngay sau Tết 1969, tôi lại được phân công vào Quân khu 4 thường trú 6 tháng . Đến Báo Quân khu 4 sơ tán ở chân núi Đại Huệ, nghe các anh Lê Bá Súy, Thanh Đồng, Đậu Kỷ Luật, Tô Đức Chiêu… truyền đạt lại những kinh nghiệm đi đường và các đơn vị điển hình đánh giỏi của dân quân du kích trong quân khu. Rất nhiều đơn vị đánh giỏi, sản xuất giỏi như xã Nhân Trạch, Quảng Bình… các đơn vị dân quân như Trung đội pháo binh gái Ngư Thủy-Kỳ Phương… Anh Thanh Đồng nói với tôi: "Ngày mai, Tỉnh đội Hà Tĩnh có cuộc họp tổng kết, Nguyễn Thanh cùng đi với mình nhé?". Tôi đồng ý ngay. Anh em chúng tôi đạp xe từ quân khu vào Hà Tĩnh. Đường không xa, anh Thanh Đồng lại quen đường, nên chỉ nửa ngày, chúng tôi đã đến Ban Tuyên huấn Tỉnh đội. Anh Thanh Đồng giới thiệu tôi với các anh trong Ban Tuyên huấn tỉnh đội. Trong Ban Tuyên huấn Tỉnh đội Hà Tĩnh lúc đó, tôi đã quen anh Trần Huy Tảo từ hội nghị thông tin viên Báo Quân đội nhân dân họp tại Hà Nội. Anh là một cộng tác viên rất tích cực viết tin, bài cho báo ta.

Tôi đã đi và sống tại rất nhiều địa phương của các tỉnh trong Quân khu 4. Tôi không thể quên lần đi cùng với anh Phan Huỳnh về viết phản ánh chiến tranh nhân dân huyện ở Quỳnh Lưu (Nghệ An).

Quỳnh Lưu bấy giờ nổi lên câu nói của Bí thư Huyện ủy Nguyễn Hữu Đợi: “Mo cơm, quả cà, tiến lên Xã hội chủ nghĩa”. Câu nói của ông trở thành phong trào của cả huyện: Các xã đều tổ chức di chuyển dân từ đồng bằng lên núi để thực hiện dãn dân tránh bom, đạn Mỹ, lấy đất sản xuất.

Anh Huỳnh là người học ở Liên Xô về. Anh đã đọc cuốn tiểu thuyết “Đất vỡ hoang”, bởi thế anh rất khoái phong trào của địa phương.

Còn tôi, thấy cảnh dân đi dỡ cả đền chùa mang theo, tôi lấy làm ái ngại.

Làm việc ở huyện Quỳnh Lưu một tuần, chúng tôi trở ra Hà Nội. Lúc ấy là thời điểm giặc Mỹ ném bom bắn pháo hạn chế khu vực Quỳnh Lưu, nên suốt đêm ngày, đạn bom địch đánh cầm canh ở các vùng thuộc xã Quỳnh Dị, Quỳnh Văn…

Chiều tối chúng tôi đạp xe về Hà Nội, nhưng không thể đi được vì bom và pháo bắn vào xã Quỳnh Dị, Quỳnh Văn rất dữ. Hai anh em chúng tôi phải hỏi thăm đến nhà Xã đội trưởng Quỳnh Dị để ngủ nhờ qua đêm.

Sau khi uống nước, Xã đội trưởng dẫn chúng tôi ra chỗ cây rơm to và chỉ cho chúng tôi chiếc hầm chữ A sau cây rơm. Hai anh em vừa ngủ được một chút thì tôi nghe thấy tiếng chú lợn thở khì khì rồi chui vào trong hầm. Con lợn khá ngoan nên ngủ yên cả đêm. Tờ mờ sáng, chúng tôi vội lên đường đạp xe giữa cái tọa độ lửa mà tối qua đạn bom địch đánh cầm canh. Hai anh em đi rất nhanh và an toàn.

Tôi có một kỷ niệm khó quên. Bữa ấy, anh Trần Hợi, phóng viên Báo Quân khu 4 rủ tôi ra Tĩnh Gia làm việc. Hai anh em chúng tôi đạp xe từ quân khu, đi tránh đường Truông Bồn, Truông Hến là ra đến xã Tĩnh Lâm, Tĩnh Gia. Lúc đó, khoảng hơn 9 giờ sáng, đang đạp xe, chúng tôi thấy có hai tốp máy bay địch ào đến đánh phá ở đoạn đường số 1 qua Tĩnh Gia. Anh Hợi và tôi phải lánh vào một xóm nhỏ của xã Tĩnh Lâm. Chúng tôi được chị chủ nhà nắm hộ cơm. Khi đang ăn thì tiếng máy bay địch réo trên đầu. Chị chủ nhà chỉ cho tôi và Trần Hợi ra ẩn ở một chiếc hầm sát bụi tre. Ngay lúc đó, lũ máy bay đã nhào xuống trút bom bi ngay chỗ chúng tôi trú. Bom bi nổ chí chát. Máy bay Mỹ trút bom bi xuống nơi bà con xã viên hợp tác xã đang họp. Thấy máy bay, bà con chủ quan ra xem, bởi vậy có hai người bị thương và một người chết tại chỗ.

Tôi và anh Hợi đang ngồi nghỉ ở nhà chị chủ nhà, bỗng có 4-5 dân quân vác súng đến chĩa vào mặt chúng tôi và quát:

- Chúng mày là gián điệp đã chỉ điểm máy bay Mỹ đánh vào bà con!

Họ đòi xem giấy tờ và thu súng ngắn của chúng tôi. Tôi đứng dậy, nói ngay:

- Đề nghị các anh không được chĩa súng vào chúng tôi, vì súng có đạn, rất nguy hiểm. Tôi đề nghị các anh không được thu súng. Bởi vì quân đội có điều lệnh kỷ luật là: Vũ khí bất ly thân.

Chúng tôi đưa giấy giới thiệu và giấy công tác cho họ xem. Vì tôi đi nhiều, nên dấu chứng nhận đóng không còn chỗ đóng. Một dân quân hỏi tôi:

- Tại sao anh không xin giấy khác?

- Tôi ở Hà Nội, khi nào hết chuyển công tác thì mới ra xin lại.

Họ im lặng. Tôi tưởng là họ sẽ tha cho chúng tôi để 4 giờ chiều chúng tôi trở về quân khu. Ngay lúc đó có thêm mấy cán bộ xã đến, trong đó có đồng chí Xã đội trưởng. Vừa nhìn thấy tôi, Xã đội trưởng bỗng chạy ùa đến ôm chầm. Anh nói với mọi người:

- Đây là Chính trị viên đại đội tôi hồi ở Sư đoàn 308. Các đồng chí phải tạo điều kiện giúp đỡ các anh ấy. Đồng chí nào nói các anh là gián điệp? Gián điệp gì mà lại chỉ điểm đánh vào đầu mình thì thật là ngốc!

Mọi người nghe Xã đội trưởng nói thì cười ồ. Sau đó, anh em dân quân ra đường chặn xe, xin cho chúng tôi đi nhờ. Chiến trường Quân khu 4 và cả miền Bắc, tôi đã có mặt mọi nơi. Cùng với anh Mai Vui Báo Quân khu 3 là đã đến trận địa của dân quân gái Tiền Hải (Thái Bình)…

(còn nữa)

Nguyễn Thanh