QĐND Online - Bé gái chập chững men đến bàn thờ nhúp một trong 3 quả dưa chuột bằng ngón tay cái, nằm quắt queo trên chiếc đĩa đặt trước tấm di ảnh người đàn ông trẻ tuổi đang nghi ngút hương khói. Người mẹ giằng quả dưa trong tay con mặc cho đứa bé khóc thét lên. Nó đâu có biết, đó là thứ duy nhất mà hằng ngày mẹ nó còn có thể mua được để cúng cơm cho bố nó. Người mẹ ôm ghì hai đứa con quỳ lết trước bàn thờ trong nhễ nhại nước mắt . Hơn một năm nay, tiếng khóc lưa thưa từ ngôi nhà ấy ngày nào cũng vong vỏng theo gió lùa vào làng nhức nhối…
Hành trình ngắn, nỗi đau dài
Sáng mồng một Tết Tân Mão 2011. Khi những đứa trẻ trong xóm tung tăng khoe áo mới và người lớn đang còn lâng lâng với ly rượu chúc nhau những điều tốt đẹp nhất ngày khởi đầu của một năm thì chị Cao Thị Thanh Xuân sinh năm 1977, ở xóm Thành– xã Cao Xá- huyện Lâm Thao- tỉnh Phú Thọ phải hứng chịu tin đau đớn. Chồng chị, anh Hà Văn Lý đã trút hơi thở cuối cùng khi mâm cơm tân niên chưa kịp lên hương. Nghe tiếng gào khóc, hàng xóm quên Tết ùa sang nhà chị. Và trong ngôi nhà rìa làng xác xơ không còn gì đáng giá nổi hai mươi ngàn đồng ấy, ông Thanh- Trưởng xóm- ứa nước mắt dắt cháu Cao Sơn Nam 13 tuổi (con trai của chị Xuân) kéo vành khăn tang bê chiếc thúng rách đến “xông đất” từng nhà để quyên góp tiền, gạo làm đám ma cho bố. Đó là những thông tin ban đầu ông Thanh cho biết trước khi chúng tôi tìm đến nhà chị Xuân vào những ngày tháng Ba này.
“Bố đã ăn đâu hả con?...”. Người đàn bà khắc khổ trả lại quả dưa lên chiếc đĩa sứt trước bàn thờ chồng. Thấy có người lạ đến, ba mẹ con nức nở, nước mắt thành dòng oà vỡ làm không khí căn nhà càng thêm tê lạnh.
Theo như lời kể của chị Cao Thị Thanh Xuân thì mỗi lúc nông nhàn người dân quê chị thường toả đi khắp nơi, làm thuê để thêm thắt cho cuộc sống. Chuyện buồn đời chị bắt đầu từ măm 1997, khi ấy chị 20 tuổi và chị Thơm 23 tuổi người cùng thôn quyết định dắt nhau vào Buôn Mê Thuột làm thuê ở rẫy cà phê. Lạ đất, lạ nước nên khi vào đến nơi chưa được một tuần, chị bị ốm. Ấy thế mà đứa con trai nhà chủ các chị đang làm thuê lại đang tâm lợi dụng sự yếu ớt trong những cơn sốt ly bì để cướp đi đời con gái của chị. Chị Xuân cắn răng chịu đựng nỗi đau bị làm nhục để mà vục dậy mong kiếm ít tiền sớm trở về quê. Chưa hết, trên đồi cà phê vắng người, trước lời đe nẹt và hơn nữa, lo sợ sự việc có ai biết được sẽ còn đau khổ hơn vạn lần, nên chị quằn quại cắn hận để gã trai ấy thỏa mãn dã tâm.
 |
Mẹ con chị Xuân bên bàn thờ người chồng xấu số
|
Chị Thơm gặng hỏi mãi thì đứa con trong bụng chị Xuân đã được hơn 3 tháng. Thương chị Xuân, chị Thơm đã đưa sự việc của chị với chủ nhà để tìm hướng giải quyết. Ai ngờ khi biết chuyện, không những gia đình chủ nhà và tên “sở khanh” chẳng chịu thừa nhận hành vi và đứa con máu mủ của mình mà còn chửi rủa Xuân thậm tệ. Họ bảo chị phải đi thử máu, thử AND, và nếu không đúng, họ sẽ kiện các chị vì tội vu khống. Không hiểu biết, lại không một đồng xu dính túi, nên chị chỉ biết cầu xin họ. Chị thút thít: “Em đã quỳ lạy trước nhà họ suốt đêm để xin họ rủ lòng thương nhưng đều vô ích. Lúc ấy em chỉ muốn chết. Giá như ngày ấy em chết đi có phải bây giờ con em đỡ khổ hơn không?”.
Sau đêm ấy, gia đình nhà kia đã trả tiền công và đuổi họ đi nơi khác. Xuân nghiến răng ôm bụng cùng chị Thơm trở về quê trong nhục nhã ê chề.
Về quê sinh con trong cái nhìn “khinh bỉ” của không ít người, chị nuốt nước mắt vào trong, cắn răng làm đủ mọi thứ để nuôi con cho đến ngày gặp anh Hà Văn Lý sinh năm 1975, người dân tộc Mán ở Thanh Sơn – Phú Thọ, cùng đi phụ hồ. Hai người đã đến với nhau, tưởng như cuộc đời chị Cao Thị Thanh Xuân sẽ “sang trang” từ ấy, nào ngờ.
Chị nghẹn ngào nấc lên: “Gia đình chúng em đều nghèo và hai người đều có những nỗi bất hạnh riêng nên hiểu được mà thông cảm cho nhau.
Lấy nhau xong, chúng em mua được mảnh đất 2 triệu này dựng tạm ngôi nhà, nhưng cũng từ khi ngôi nhà này được dựng lên thì bệnh viêm gan B của chồng em mỗi ngày càng thêm nặng hơn. Đã hai lần em sinh nở nhưng không được, đến lần thứ 3 năm 2008 thì sinh cháu Hà Thu Hằng. Cùng thời gian ấy bệnh của chồng em đã chuyển sang giai đoạn ung thư…”.
Những câu nói đứt đoạn khiến chúng tôi không kìm được nước mắt vì thương cảm, bởi trong thời gian ấy, chị phải bứt đôi môi khát sữa của đứa con gái, tất tưởi gõ cửa vay mượn khắp nơi để ôm chồng đi hết các bệnh viện này, đến thầy lang nọ, thậm chí cả thầy cúng…Nhưng gạn cào đến những gì không thể gạn được nữa thì đến sáng mồng một Tết, anh Lý qua đời để lại chị và hai đứa con thơ cộng với món nợ lãi lên tới hơn 30 triệu đồng mà không biết đến bao giờ chị mới có thể trả được.
Nghe chị trải lòng thì không phải từ khi anh Lý mất, mà đã từ lâu lắm, khi bệnh gan của chồng chị xấu đi, gia đình chị luôn ở trong những cơn đói triền miên, dù chị đã làm thuê, làm mướn khắp nơi. Chị Xuân nghẹn ngào: “Thằng Nam đã phải bỏ học từ khi bố nó phát bệnh ung thư gan và con Hằng rồi cũng phải thế thôi! Em cũng muốn cho chúng nó được học hành để kiếm ít chữ để sau này không phải khổ như bố mẹ, nhưng giờ đây với một sào tư ruộng khoán và chút tiền chạy chợ, làm thuê mướn khắp nơi cũng chỉ cố lo bát gạo rau cháo và trả tiền lãi thì biết làm thế nào. Chỉ cầu xin khi lớn lên chúng nó hiểu cho mà không kết tội cha mẹ…”. Nước mắt thay cho những lời tiếp theo chị muốn nói với chúng tôi.
Bao giờ cho hết tương lai mịt mùng?
Hằng ngày chị Xuân quệt nước mắt, quên mưa, nắng, lao đao chạy chợ, tất tưởi làm thuê để tồn tại, dẫu chị biết, vắng mẹ, hai đứa con của mình sẽ ngơ ngác, bấp bênh bữa có, bữa không. Ông Phạm Văn Ánh, Trưởng khu hành chính xóm Thành cho biết: “Khi anh Hà Văn Lý chưa mất, chúng tôi chỉ biết gia đình họ có khó khăn chứ không nghĩ hoàn cảnh gia đình này lại bi đát đến mức như thế. Các anh đi nhiều thì các anh cũng biết, khi con người ta càng khó khăn thì lòng tự ái, tự ti lại càng cao. Chính vì lẽ ấy nó khiến con người ta khó mở lòng với nhau …Chỉ đến khi anh Lý ra đi, Hội phụ nữ và bà con trong khu mới biết về gia cảnh nhà chị Xuân nhiều hơn nên đã tổ chức quyên góp ủng hộ, nhưng thú thật cũng chỉ đủ mua tấm quan và lo tang lễ thôi ”.
Khi được hỏi rằng chính quyền địa phương có phương án “dài hơi” nào giúp đỡ mẹ con chị Cao Thị Thanh Xuân để các cháu được đến trường không, thì không ai có câu trả lời.
Tôi biết mình đang đặt ra một câu hỏi khó ở cái làng mà người dân quanh năm gạn đá, vắt sỏi thành lưng cơm qua ngày này, bởi trong bể đời còn có biết bao người ở trong hoàn cảnh như gia đình chị Xuân, thậm chí còn bi đát hơn thế nhiều nữa. Biết vậy, nhưng tôi không khỏi ứa nước mắt khi nhìn về con đường cao tốc đang thi công chạy cắt ngang cánh đồng phía trước ngôi nhà của chị. Đâu sẽ là lối đi cho mẹ con chị?
Trên tay chị, cháu Hà Thu Hằng vẫn vô tư say trong giấc ngủ, chứ nào ai biết cháu đang mơ giấc mơ gì giữa khói hương u ám hòa với nước mắt tủi khổ của mẹ? “Mẹ ơi! mẹ cho con đi học..”. Câu nói lí nhí bên mấy cuốn sách đã nhàu nhĩ bị bỏ quên của cháu Cao Sơn Nam làm chúng tôi quặn lòng trước lúc chia tay. Cũng đúng thôi, vì thăm thẳm trong đôi mắt trong suốt ấy, cháu chưa thể nhìn thấy những hố đen có thật đang dần há miệng dưới lòng bàn chân mình, bởi bây giờ cháu chỉ thấy đói, thấy khát và thấy thèm được đến trường như các bạn cùng trang lứa khác, chứ cháu đâu biết được vì sao cháu đói khát và không được đến trường cùng bè bạn. Có lẽ trong giấc mơ của cháu Hằng, trong ánh mắt của cháu Nam và cả trong nỗi khắc khoải cùng cực của chị Cao Thị Thanh Xuân đang đau đáu mơ về những tấm lòng đầy ắp tình yêu thương của con người khắp nẻo phương trời hé mở.
Bài, ảnh: Ngô Tiến Mạnh