Kỳ 3: Khát vọng Nguyên Bình

QĐND - Đường đến thị trấn Nguyên Bình uốn lượn theo độ cao của các triền núi khiến chiếc xe con bồng lên, thụp xuống như một chiếc máy bay trực thăng đang bay vào vùng thời tiết xấu.

Đại tá Nguyễn Thắng, Phó chỉ huy trưởng - Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Cao Bằng nói rằng: “Đường về Nguyên Bình quá gấp khúc, nhiều đèo dốc, đi mệt đấy”. Biết là như vậy, nhưng được về Nguyên Bình, về núi rừng Trần Hưng Đạo nơi mà Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng ra đời khiến chúng tôi rất háo hức.

Huyện Nguyên Bình nằm ở phía Tây của tỉnh Cao Bằng, có diện tích tự nhiên 839,16km­­­­2, dân số gần 40.000 người với hai thị trấn là Nguyên Bình và Tĩnh Túc. Cơ cấu kinh tế của địa phương chủ yếu là nông nghiệp và lâm nghiệp. Đồng chí Bế Xuân Tiến - Chủ tịch UBND huyện Nguyên Bình “bật mí” cho chúng tôi biết rằng: “Người Nguyên Bình bao giờ cũng hào hoa, mến khách và rất chịu khó lao động sản xuất. Nhưng số trí thức, cán bộ nông – lâm nghiệp giỏi công tác tại địa phương chưa nhiều, nên chưa có sự đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội”. Qua câu chuyện với Chủ tịch huyện, chúng tôi biết Nguyên Bình đã thực hiện dự án “Mô hình cánh đồng điểm” khá hiệu quả, giúp cho một số hộ dân trồng ngô, trồng lúa, trồng cây thuốc lá có thu nhập từ 30 đến 50 triệu đồng/ha. Hiện nay, ngành nông nghiệp huyện đang hướng dẫn bà con trồng cây dong riềng để làm miến, trồng ngô vụ hè, ngô lai, đậu xanh sinh trưởng và phát triển khá tốt.

Chị Nông Thị Diệp, một nông dân ở bản Nưa, xã Bảo Hợp, huyện Nguyên Bình làm kinh tế giỏi. (Ảnh báo Cao Bằng).

Rừng Nguyên Bình khá xanh tốt với diện tích khoanh nuôi tái sinh là 823,75ha, rừng trồng là 117,73ha, rừng bảo vệ 2052,2ha. Tuy nhiên, điều mà lãnh đạo địa phương còn trăn trở hiện nay chính là ở việc đất sản xuất khá dồi dào, diện tích rừng lớn nhưng người dân chưa thực sự gắn bó máu thịt với nghề nông. Ở nhiều xã, tình hình khai thác khoáng sản trái phép diễn ra tương đối phức tạp như các điểm: Phia Oắc, Thể Dục, Phan Thanh, Tam Kim, Hoa Thám, Hưng Đạo… Trong năm 2011, các ngành chức năng của huyện đã tuyên truyền, vận động và giải tỏa được gần 300 người ra khỏi khu vực khai thác, phá và tiêu hủy 40 lán trại tạm, tịch thu gần 100 tấn quặng sắt. Nhưng những cố gắng của các cấp chính quyền cũng chưa thể chấm dứt được tình trạng nhức nhối này. Ông Bế Quang Hải ở xã Hoa Thám nói rằng: “Khai thác, vận chuyển, mua bán trái phép quặng sắt giúp người dân có nguồn thu lớn hơn trồng lúa, trồng ngô, đậu hay trồng rừng rất nhiều. Vì thế, chẳng dễ gì để vận động hay ngăn cản tình trạng này”. Vì lợi nhuận, nhiều gia đình phá cả nhà để đào quặng đem bán. Cũng vì lợi nhuận lớn từ quặng sắt đem lại, hàng nghìn héc-ta đất sản xuất nông nghiệp, đất rừng đã bị đào bới nham nhở. Đến khu chợ phiên của huyện Nguyên Bình, chúng tôi thấy rau xanh được bày bán ít hơn thịt. Có lẽ vì thế mà người ta có câu: “Một nhát cuốc vào đất đã có quặng rơi ra, thì việc gì phải trồng trọt, chăn nuôi cho vất vả”. Và điều mà lãnh đạo huyện Nguyên Bình mong muốn hiện nay là làm sao người dân không chỉ sống no đủ, mà còn làm giàu được bằng sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp?

Đường về xã Tam Kim uốn lượn như một dải khói mỏng. So với các xã trong huyện, đời sống của bà con Tam Kim có phần ổn định hơn do mấy năm gần đây năng suất trồng ngô, trồng lúa có tăng lên. Năm 2011, tổng sản lượng cây có hạt của Tam Kim đạt 2.224 tấn. Đồng chí Tô Đình Hải - Phó bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã nói rằng: “Đời sống của chúng tôi nâng lên chủ yếu là do việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng khá thành công, bước đầu thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn đạt kết quả khả quan”. Những năm gần đây, bà con nông dân xã Tam Kim tiến hành làm nhiều vụ trồng cây thuốc lá, đảo vụ ngô theo quy trình: Lúa nước - ngô - thuốc lá. Mặc dù không phải là cây trồng chính, nhưng giá thuốc lá cũng khá cao (từ 39.000 đến 43.000 đồng/kg), hơn hẳn giá trị khi trồng lúa hay trồng ngô. Người Cao Bằng nói: “Thịt lợn ở Tam Kim là ngon nhất”. Ngon nhất ở đây không chỉ là loại lợn ít mỡ, thịt thơm mà còn vì lợn chỉ nuôi bằng phương pháp thủ công, khi mổ bán thì lúc nào thịt cũng tươi. Cũng chính vì thế, nhiều người làm hàng giò chả, nem thường đến Tam Kim để mua lợn.

Điều rất ấn tượng ở xã Tam Kim là hơn 80% diện tích đất trồng trọt là do máy móc cày xới. Với việc quan tâm cải tạo, nâng cấp hệ thống đường nội đồng của lãnh đạo xã, nên các loại xe máy, xe công nông có thể qua lại được. Bà Nông Thị Tuyết - 54 tuổi, ở khu chợ Phai Khắt nói: “Nếu được đầu tư tốt hơn về thủy lợi, về giống cây trồng cho năng suất cao, có giá trị xuất khẩu, thì nhiều người dân sẽ bỏ nghề đi khai thác quặng sắt trái phép ngay”. Từng làm Chủ tịch UBND xã Tam Kim 12 năm qua, anh Hải hiểu rõ từng bước phát triển của địa phương mình. Đưa chúng tôi đi thăm đồng ruộng quê nhà, anh Hải gật gù: “Nếu quy hoạch kỹ hơn, được đầu tư nhiều hơn, những nơi này có thể đã trở thành trang trại chăn nuôi, sản xuất từ lâu rồi. Hay như khu rừng Trần Hưng Đạo, nếu được đầu tư để xây dựng các khu vui chơi, giải trí, kèm theo các dịch vụ hấp dẫn, có tính giáo dục cao, sẽ thu hút được nhiều khách du lịch tới tham quan”.

Đồng chí Tô Đình Hải, Chủ tịch HĐND xã Tam Kim và bác Đặng Hùng Cao tại khu di tích rừng Trần Hưng Đạo.

Chúng tôi xúc động bước vào khu di tích rừng Trần Hưng Đạo, nơi đã diễn ra Lễ thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân ngày 22-12-1944. Bác Đặng Hùng Cao, 51 tuổi, người đã trông coi ở đây suốt 16 năm trời nhớ từng gốc cây, đoạn đường trong khu rừng. Bác Cao bảo: “Có người đến thăm là chúng tôi mừng lắm. Chỉ tiếc một địa danh nổi tiếng như thế này, mà mỗi năm chỉ có khoảng 4000 khách đến tham quan trong các dịp lễ, Tết thôi”. Chúng tôi theo chân bác Cao vào sâu trong khu di tích. Chẳng hiểu sao, trong tiết trời lành lạnh, những bông hoa mặt trời (người địa phương gọi là hoa cúc dại, còn người Tây Nguyên gọi là hoa cúc quỳ) cứ bung nở rực rỡ, vàng rộm cả một góc rừng. Thời gian qua, nhiều đoàn cựu chiến binh, đoàn lãnh đạo các tỉnh thành, các đoàn khách quốc tế và các bạn trẻ khi đến đây, đều rất thích thú khi được tham quan khu rừng, tham quan các di tích. Nhiều đôi bạn trẻ trước khi cưới đã cùng nhau đến đây chụp ảnh lưu niệm. Chúng tôi đã đọc hết những dòng lưu bút của các đoàn khách đến tham quan di tích nơi diễn ra sự kiện thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân. Từ các đoàn khách trong nước, đến các đoàn khách của Nga, Ấn Độ, Bra-xin, Nam Phi… đều bày tỏ lòng ngưỡng mộ, sự trân trọng, cảm phục đối với các chiến sĩ cách mạng lão thành đã đặt nền móng xây dựng nên một quân đội anh hùng, hiện đại như ngày nay.

Chúng tôi trở lại thị trấn Nguyên Bình khi Đại hội thi đua Quyết thắng giai đoạn 2008-2011 của LLVT huyện vừa kết thúc. Anh em ở ban chỉ huy quân sự huyện đã mua một bó mía to để làm quà cho khách. Mía Nguyên Bình thơm và giòn nổi tiếng.

Chúng tôi rời Cao Bằng khi cái rét mới chỉ bắt đầu, nhưng trong những ngày Tết này, nơi đây đang khá giá lạnh. Gọi điện cho chúng tôi, Đại tá Lê Hùng - Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Cao Bằng nói vui: “Rét ở Cao Bẳng đang rất ngọt, rất đê mê. Chắc nó nhớ các nhà báo nhiều lắm”. Nói như vậy thôi, chứ chính chúng tôi mới là những người nhớ Cao Bằng cồn cào, da diết. Chúng tôi chợt nghĩ, người Cao Bằng rất thông minh, rất tâm huyết, rất gắn bó với đất, với núi rừng. Những yếu tố quyết định ấy sẽ là động lực để vùng đất này vươn lên, không hổ danh là thành Mục Mã nổi tiếng một thời.

Hà Nội – TP Hồ Chí Minh, tháng 1-2012

------------

Kỳ 1: Thành phố trên vùng Mục Mã

Kỳ 2: Mưa phùn Trùng Khánh

Bài và ảnh: Phi Hùng-Huyền Trang