Hồi ấy, những năm 1968-1972, chúng tôi - những người lính của Trung đoàn 27 – Trung đoàn Xô Viết (Nghệ An đỏ) chiến đấu trong vùng “chảo lửa” Quảng Trị. Vùng đất thời ấy không một tấc nào không bị cày đi xới lại bởi đạn bom của quân thù… Chúng tôi đã từng nói với nhau: “Mình không chết mới là điều vô lý”! Sự vô lý ấy nó “thật” đến mức mãi đến hôm nay, sau gần 40 năm chiến tranh đã lùi xa mà khi gặp lại, chúng tôi vẫn rất “vô lý” hỏi nhau: “Vì sao hồi đó mình không chết?”.

Hỏi nhau vậy thì cứ hỏi, nhưng rồi chiêm nghiệm lại vẫn biết điều “Vô lý” ấy lại là điều có lý một trăm phần trăm! Quả vậy, nếu nói chúng tôi sống sót là vô lý thì làm sao hôm nay trên vùng trang trại sinh thái Lý Thành (Yên Thành) lại có được cuộc hội ngộ của gần ba trăm cựu chiến binh của Trung đoàn đỏ Nghệ An - những người đã từng sống sót ở Quảng Trị… và đi hết cuộc chiến tranh giải phóng - Những người chiến thắng trở về sau ngày 30-4-1975 lịch sử!

Các cựu chiến binh Trung đoàn 27 trong ngày gặp mặt truyền thống.

Người “sống sót vô lý” mà tôi kể đến đầu tiên là ông Võ Khắc Thiêm, chủ nhân trang trại Lý Thành nơi chúng tôi đang họp mặt. Khi còn đang “uýnh nhau” ở Quảng Trị, ông Thiêm thường được đồng đội ở Tiểu đoàn 2-Trung đoàn 27 gọi là “Thiêm liều”! Không biết gọi ông Thiêm là người “sống sót vô lý” có đúng không, nhưng có một sự thật là trong số những đồng đội của ông nhận được tin báo về dự cuộc hội ngộ này, thì có đến quá nửa họ bây giờ mới biết: “Thiêm liều” đang sống. Chẳng là năm 1970 “Thiêm liều” bị thương và ai cũng nghĩ ông đã chết vì sau đó “mất tích”… Cho đến 30 năm sau, người ta mới biết “Thiêm liều” mở trang trại “đánh thức” vùng Truông Gió-Treo Màn ở Lý Thành, đồng thời nhận phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng Lê Thị Em ở Bảo Thành. Được biết, ông Thiêm ấp ủ và chuẩn bị cho cuộc hội ngộ này từ 4, 5 năm nay.

Thật xúc động khi tại cuộc hội ngộ có một không hai này, chúng tôi được đón tiếp các anh chị nguyên là du kích, bộ đội địa phương Quảng Trị đã một thời sát cánh chia lửa diệt thù; một thời nắm gạo rang, hạt muối, hạt vừng, viên thuốc ký ninh… chia năm, sẻ bảy. Đã một thời những con người có mặt trong cuộc hội ngộ hôm nay ôm nhau nấp trong hầm bí mật, dìu nhau vượt sông, vượt phá… đói cơm, thiếu muối và những trận sốt rừng bụng bỏng, da vàng… Một thời cùng nhau giữ chốt, chống càn… rồi cùng “sống sót” và chiến thắng trở về. Đó là anh Nguyễn Minh Kỳ, nguyên Phó bí thư Tỉnh ủy, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị; anh Hoàng Xuân Quy, cán bộ Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã từng sát cánh với đồng đội Trung đoàn 27 của chúng tôi chiến đấu ở mặt trận Cam Lộ những năm 1969-1972; Đó là vợ chồng anh Nhiệm, chị Sáng; vợ chồng anh Giang, chị Minh; o Vân, o Bang, anh Thìn, chị Bê, nguyên là cán bộ du kích, cơ sở mật của xã Cam Mỹ; Là vợ chồng anh Lân, chị Sen; vợ chồng anh Thái, chị Liên, nguyên du kích Cam Mỹ, Cam Thanh… Những người du kích, những người lính giải phóng năm xưa đã vượt hàng trăm cây số, ngược lên miền núi Yên Thành xứ Nghệ-gặp nhau rưng rưng nghẹn ngào, cùng nhớ về một thời đạn bom mà đến hôm nay người còn, người mất…!

Đến với cuộc hội ngộ này còn có cả “một nửa toán trinh sát sống sót vô lý”. Đó là ông Phan Đình Phùng toán trưởng; ông Nguyễn Hoàng và ông Trần Anh Đài, nhân viên điện đài của toán trinh sát địch hậu thuộc Trung đoàn 27 hồi năm 1972. Hồi đó tôi và hai chiến sĩ trinh sát thuộc toán là Thân và Danh, sau khi trở ra hậu cứ nhận thêm trang bị bổ sung, quay vào thì bị địch phục kích. Thân và Danh hy sinh tại chỗ, còn tôi và du kích Út Duyên dẫn đường đã may mắn thoát chết. Suốt ba tháng ròng hoạt động trong vùng địch, chúng tôi ngày thì ở trong hầm bí mật, có khi ngâm mình trong đám lục bình dưới đầm, dưới phá để che mắt bọn ác ôn thám báo địch đi lùng; đêm lại lên bắt liên lạc với cơ sở, điều tra thu thập thông tin tình báo cho Mặt trận. Tuy nhiên, do nhiều lần chôn giấu dưới đất nên điện đài bị hỏng, vì thế, chúng tôi không thể liên lạc được với Ban chỉ huy Trung đoàn. Qua cơ sở, chúng tôi nhận được lệnh phải trở về để báo cáo tình hình cho ban chỉ huy lập phương án chống chiến dịch phản kích “Tái chiếm lãnh thổ” của địch. Nhận lệnh của Ban chỉ huy Trung đoàn, chúng tôi vượt gần 30 cây số qua vùng địch tạm chiếm, không ai nghĩ có thể nguyên vẹn trở về. Tôi còn nhớ hồi đó toán trưởng đã nói với chúng tôi: “Là lính trinh sát, bất luận trong trường hợp nào ta cũng tìm được một lối thoát cho mình - còn một người cũng phải mang được báo cáo về cho Ban chỉ huy Trung đoàn”. Thế là chúng tôi ngày tìm nơi ẩn náu, đêm cắt đường, tránh chốt, tránh ổ phục kích của địch mà đi. Sau 3 ngày 3 đêm, chúng tôi về đến hậu cứ của trung đoàn nguyên vẹn.

Chuyện về toán trinh sát của ông Phùng, ông Đài có vẻ ly kỳ không kém truyện trinh thám, nhưng chuyện về tổ chốt của Lê Bá Dương trên “đồi thám báo” mới làm người thời nay khó tưởng tượng (!). Viết đơn xung phong nhập ngũ khi vừa chẵn 15 tuổi, vậy mà bây giờ tóc ông Dương đã điểm bạc. Tại buổi hội ngộ này ông đã khóc, mọi người cũng khóc khi được nhìn lại tấm ảnh Bác Hồ và những dòng chữ ghi lời thề quyết tử giữ chốt đến cùng viết bằng máu của những chiến sĩ trên “đồi thám báo”. Ngày ấy, để có thể tổ chức lực lượng cho trận đánh tiêu diệt cao điểm 544 - được coi là “mắt thần” quan trọng bậc nhất trong tuyến hàng rào điện tử Mắc-na-ma-ra của địch, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 Bùi Xuân Các trao cho Lê Bá Dương ba quả pháo hiệu và chỉ thị: Cậu chọn mấy chiến sĩ lên chiếm lĩnh mỏm “đồi thám báo” cố giữ lấy một ngày để tối đơn vị lên tập kết làm bàn đạp đánh chiếm 544. Trường hợp không giữ được, bắn pháo hiệu gọi pháo của ta hủy trận địa!

Tấm ảnh Bác Hồ ghi lời tuyên thệ của đồng chí Lê Bá Dương viết bằng máu trên “cao điểm Thám Báo”.

Cầm ba quả pháo hiệu với mệnh lệnh “hy sinh” để giữ chốt, Lê Bá Dương cùng 3 chiến sĩ đã đối mặt với hàng chục cuộc tấn công của 2 đại đội ngụy với sự yểm trợ “tiền phi hậu pháo” từ điểm cao 544 nống ra. Trận đánh không cân sức diễn ra cho đến chiều tối. Trong khoảnh khắc đối mặt với hàng trăm tên ngụy chia thành nhiều cánh ùa lên chốt, Lê Bá Dương đã lấy máu từ vết thương của mình viết lên tấm ảnh Bác Hồ lời thề quyết tử. Sau khi chuyền cho đồng đội cùng hôn ảnh Bác, Lê Bá Dương bắn pháo hiệu gọi pháo ta hủy diệt trận địa theo hiệp đồng, đồng thời cho nổ hết số mìn gài ngược về phía trận địa đúng lúc bọn lính ngụy tràn lên… Cả trận địa bị trùm trong làn pháo bắn dồn dập cho đến đêm. Khi bộ đội Tiểu đoàn 2 tổ chức xung phong đánh chiếm điểm cao 544, Lê Bá Dương và Phùng Hòe, chỉ còn là hai cái “xác”… Các đồng đội của Lê Bá Dương đã không cầm được nước mắt khi chính trị viên Ngô Ất chuyền cho mọi người tấm ảnh Bác với lời thề viết bằng máu của Dương… Đêm đó, tấm ảnh Bác Hồ này đã cùng đội hình đơn vị tiêu diệt toàn bộ cao điểm 544…

Vậy mà lần đó ông Dương vẫn sống. Sau này trong hành trình tiếp tục chiến đấu, thêm hàng chục lần bị thương nhưng ông vẫn sống để trở về… Rồi cũng từ ngày ấy cho đến bây giờ, năm nào ông cũng lặn lội hàng trăm cây số trở về chiến trường xưa hương khói cho đồng đội. Hẳn nhiều người đã biết ở Quảng Trị có một lễ hội thả hoa trên sông Thạch Hãn vào ngày 27-7 hằng năm để viếng hương hồn những liệt sĩ đã vĩnh viễn nằm lại dưới dòng sông này. Và mỗi lần dự lễ thả hoa trên dòng sông Thạch Hãn, ông Dương lại khắc khoải nỗi niềm thương nhớ đồng đội: Đò lên Thạch Hãn ơi…chèo nhẹ/Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/Có tuổi hai mươi thành sóng nước/Vỗ yên bờ, mãi mãi ngàn năm…

Hôm nay, cùng trong đội hình những người đồng đội một thời sinh tử trong cuộc hội quân tại Lý Thành, chính Lê Bá Dương đã nói trong nước mắt: chúng ta - tất cả những đồng đội chúng ta hôm nay ngồi đây đều là những người đang sống - sống một cách vô lý… Nhưng cũng chính vì cái sự vô lý đó, hôm nay chúng ta đã làm cái điều có lý là cuộc hội ngộ của tình đồng chí, nghĩa đồng đội một thời vào sinh, ra tử…

Vâng, cuộc hội ngộ của những người “sống sót vô lý”, của những người chiến thắng trở về mới kỳ diệu biết bao! Những người lính Trung đoàn đỏ Nghệ An, những du kích Cam Lộ - Quảng Trị tay trong tay cùng say sưa hát vang bài ca truyền thống của trung đoàn. Chúng tôi hát như chưa bao giờ được hát! Có lẽ trong tất thảy chúng tôi, ai cũng như đang được sống lại không khí của một thời trai trẻ-Một thời “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước…”!

Bài và ảnh: CẢNH YÊN