Bài 5: Tượng đài trong lòng dân

QĐND - Với mong muốn tiếp cận thêm thông tin về giai đoạn trước đổi mới, cũng như những đánh giá về các nhân vật lịch sử, sau khi thực hiện xong 4 bài viết (đã đăng từ ngày 9 đến 12-2), phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã có cuộc trao đổi nhanh với các nhà khoa học và chuyên gia kinh tế: PGS. TS Hà Huy Thành, nguyên Phó viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam; TSKH Nguyễn Thị Hiền, nguyên Vụ trưởng Ban vật giá Chính phủ, nguyên chuyên viên cao cấp Văn phòng Chủ tịch nước… Xin giới thiệu cùng bạn đọc.

Tư tưởng, hành động anh hùng

PV: Thưa PGS. TS Hà Huy Thành và TSKH Nguyễn Thị Hiền! Có không ít người thắc mắc là tại sao trước những khuyết tật của cơ chế cũ đã bộc lộ ngày càng rõ nét sau năm 1975 nhưng chúng ta vẫn duy trì và phải đến Đại hội VI năm 1986 mới quyết định đổi mới. Tại sao chúng ta không đổi mới sớm hơn, như Trung Quốc chẳng hạn, họ đã bắt đầu cải cách từ năm 1978?

PGS. TS Hà Huy Thành: Để đi đến quyết định đổi mới tại Đại hội VI, nước ta đã phải trải qua một giai đoạn vật lộn, đấu tranh gian khổ, từng bước tạo nên những thay đổi về nhận thức, về tư duy. Quá trình ấy diễn ra ngay trong những quyết sách ở tầm “vĩ mô”. Từ Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV) tháng 9-1979, Đảng đã chủ trương “bung ra”, “cởi trói cho sản xuất”, tháo gỡ được nhiều khó khăn, hé mở những hướng đi mới nhưng sau đó lại xuất hiện tình trạng vô tổ chức trong các quan hệ kinh tế như tranh mua, tranh bán, chụp giật trên thị trường… Điều đó làm cho những ý tưởng đột phá cải cách bắt đầu bị đặt những câu hỏi về hướng đi. Những quan điểm bảo thủ, cũ kỹ lại có căn cứ để thực hiện việc “siết lại” bằng những kỷ cương kinh tế truyền thống trong những năm 1982, 1983. Đến năm 1985, tình hình diễn biến ngày càng xấu hơn, đòi hỏi khách quan là phải dứt khoát lựa chọn một lối ra cho nền kinh tế. Đặc biệt, sau kết quả cuộc cải cách giá lương tiền năm 1985 đã đẩy tình thế tới chỗ không thể chắp vá mô hình cũ mà phải thay đổi hoàn toàn…

PGS. TS Hà Huy Thành. Ảnh: Vĩnh Thăng.

TSKH Nguyễn Thị Hiền: Ở đây, tôi muốn nói cho rõ là năm 1978, Trung Quốc tiến hành cải cách nhưng mới tập trung trong lĩnh vực nông nghiệp. Đổi mới ở Việt Nam tuy sau cải cách của Trung Quốc nhưng ở những giai đoạn đầu chúng ta làm đầy đủ, toàn diện và nhất thể hơn. Ví dụ như vấn đề xóa 2 giá, Việt Nam làm trước Trung Quốc hàng chục năm. Năm 1990, nước ta đã gần như xóa chế độ 2 giá với những sản phẩm cơ bản, trong khi Trung Quốc gần đến năm 2000 vẫn còn 2 giá với một số sản phẩm.

Đúng như PGS, TS Hà Huy Thành đã nói, để đi đến quyết định đổi mới toàn diện tại Đại hội VI, chúng ta phải qua một quá trình. Nhưng cũng xin nói thêm là những quyết định của Đại hội VI là lịch sử, tuy nhiên không phải ngay sau đó, chúng ta đã đổi mới toàn diện được ngay đâu. Hàng loạt những vấn đề về cơ chế thị trường, quan điểm và đường lối kinh tế… vẫn chưa được khẳng định dứt khoát. Cuộc đấu tranh giữa cái cũ và mới vẫn tiếp tục diễn ra…

PV: Có thể nhìn nhận như thế nào về đóng góp của các cá nhân đã dũng cảm đi tiên phong trong đổi mới tư duy, xây dựng các mô hình và góp phần hoạch định đường lối đổi mới?

TSKH Nguyễn Thị Hiền: Trước hết tôi cho rằng, công cuộc đổi mới là tác phẩm của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó có đóng góp của nhiều người, mỗi người có đóng góp ở tầm mức của riêng mình. Chúng ta cần ghi danh phong trào đổi mới của quần chúng, đặc biệt là ở phía Nam và các cá nhân tiêu biểu đã dám tháo bỏ những tư duy và quy định cũ, có nhiều cách làm sáng tạo, hiệu quả để thúc đẩy sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân. Hiệu quả thực tiễn của các mô hình mới từ cơ sở đã có tác động lớn và thuyết phục đối với những quyết định “vĩ mô”, góp phần từng bước hình thành đường lối đổi mới của Đảng.

PGS. TS Hà Huy Thành: Cái mới khi bắt đầu xuất hiện không phải dễ dàng được chấp nhận ngay. Tôi nói ví dụ như trường hợp của Tổng bí thư Trường Chinh mà trong vệt bài các anh đã đề cập. Là một nhà lãnh đạo cấp cao có uy tín rất lớn nhưng khi ông nỗ lực trong việc đấu tranh để bảo vệ cho quan điểm đổi mới trước Đại hội VI, ông vẫn phải chịu đựng búa rìu của sự phê phán. Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng Đoàn Duy Thành khi áp dụng khoán trong nông nghiệp cũng bị không ít người phản đối gay gắt. Giám đốc Ba Thi bị gán cho tội “tranh mua, tranh bán, phá thị trường”. Bí thư Chín Cần của Long An từng bị quy chụp là “thành phần xét lại”… Nếu không dũng cảm, đặc biệt là tấm lòng vì dân, thương dân thì làm sao họ dám thay đổi tư duy và “phá rào” như thế được… Tôi cho rằng, tư tưởng và hành động của những người như vậy xứng đáng vinh danh như những người anh hùng. Lịch sử bao giờ cũng vậy, nếu hy sinh và cống hiến hết mình vì dân thì sẽ sống mãi trong lòng dân, là tượng đài vững bền trong lòng nhân dân…

PV: Ngoài các chân dung đã được nhắc đến trong vệt bài trên Báo Quân đội nhân dân, dưới góc nhìn của các nhà khoa học và chuyên gia kinh tế, ông, bà có thể nêu một số cá nhân và mô hình tiêu biểu khác trong giai đoạn trước đổi mới?

TSKH Nguyễn Thị Hiền. Ảnh: Tuấn Tú.
TSKH Nguyễn Thị Hiền: Với các nhà lãnh đạo thời đó, ngoài những nhà lãnh đạo cấp cao như Lê Duẩn, Trường Chinh, tôi nghĩ không thể không nhắc đến những gương mặt khác như ông Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn Linh… Các ông là những người đã từng công tác lâu ở cơ sở nên rất hiểu thực tiễn và luôn có tư tưởng, hành động đổi mới, ủng hộ cái mới. Tôi có thời gian làm việc với ông Kiệt khi ông từ TP Hồ Chí Minh ra nhận nhiệm vụ ở trung ương nên biết được những trăn trở của ông. Nhất là khi ông được giao chỉ đạo các tổ triển khai nghị quyết trung ương về cải cách giá lương tiền. Ông sâu sát, cụ thể trong chỉ đạo mọi việc, nhất là rất quyết liệt và nhất quán trong triển khai vấn đề một giá, trăn trở với việc xóa giá nghĩa vụ đối với nông dân… Ở dưới cơ sở, còn có một cá nhân mà lâu nay ít được nhắc đến. Đó là ông Năm Ve, Giám đốc Xí nghiệp đánh cá Côn Đảo. Ông là người thay đổi cơ chế quản lý: Thay vì quản lý theo chế độ kinh tế quốc doanh, ông chuyển sang quản lý theo chế độ nậu vựa của các chủ đánh cá thuở trước giải phóng. Mô hình này đã mang lại thay đổi rõ rệt: Xí nghiệp làm ăn có lãi, đời sống công nhân được nâng cao…

PGS. TS Hà Huy Thành: Tôi nghĩ rằng, các cá nhân và mô hình nêu trong vệt bài của Báo Quân đội nhân dân là rất tiêu biểu trong thời kỳ đó. Còn một số mô hình cụ thể khác nhưng ảnh hưởng ra toàn quốc còn ở mức độ nào đó, ví như những cải tiến của Nhà máy Công cụ số 1 chẳng hạn…

Quyết tâm và dũng cảm chính trị

PV: Câu chuyện về “Những người mở lối” và các mô hình “phá rào” trước đổi mới đã để lại bài học và kinh nghiệm gì trong giai đoạn hiện nay, thưa PGS. TS Hà Huy Thành và TSKH Nguyễn Thị Hiền?

“Từ năm 1979 đã có một số mũi đột phá táo bạo trong kinh tế, mà thời đó thường gọi là “phá rào”. Kết quả của những cuộc phá rào đó đã dội vào tư duy kinh tế của nhiều nhà lãnh đạo, làm cho họ từng bước nhận thấy cần và có thể chọn một hướng đi khác trước… Tiêu biểu là những trường hợp sau: Khoán ở Hải Phòng năm 1980, khoán ở Xí nghiệp đánh cá Côn Đảo, Vũng Tàu, khoán ở Công ty xe khách miền Đông Nam Bộ, thu mua lương thực ở Công ty Kinh doanh Lương thực Thành phố Hồ Chí Minh, phá giá thu mua lúa ở An Giang, áp dụng cơ chế giá thị trường ở Long An,…”.

(Cố GS lịch sử kinh tế Đặng Phong)

TSKH Nguyễn Thị Hiền: Bài học không bao giờ cũ với người lãnh đạo, đó là khi đưa ra những quyết định, nhất là các quyết sách lớn, quan trọng phải được tính toán kỹ lưỡng và không được duy ý chí. Đặc biệt, người lãnh đạo phải có quyết tâm và dũng cảm chính trị. Phản ứng của dư luận trước các quyết sách bao giờ cũng có, trong đó có phản ứng không hài lòng của những người là đối tượng của cuộc cải cách. Nhưng nếu quá cân nhắc mà không tính đến sự cần thiết và hiệu quả của cải cách đó đem lại thì tiến trình cải cách sẽ bị chậm.

Một điều rất quan trọng mà trong nhận thức, chúng ta đã thống nhất đó là phải thực sự tôn trọng các quy luật của cơ chế thị trường. Không nên “chính trị hóa” các quyết sách kinh tế, giảm bớt những cân nhắc về chính trị khi đưa ra các quyết sách thuần túy là kinh tế. Từng bước hoàn thiện các cơ chế, chính sách, luật pháp phù hợp với thực tiễn cuộc sống và nguyện vọng của nhân dân, để khỏi phải “phá rào” như đã từng xảy ra…

PGS. TS Hà Huy Thành: Ở đây, tôi muốn nhắc lại câu “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Cái “bất biến” là độc lập, chủ quyền dân tộc, là mục tiêu và con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn… Nhưng trong thực tế cuộc sống, ứng với mỗi thời điểm, giai đoạn cụ thể thì luôn có “vạn biến”. Phải luôn sáng tạo và đổi mới cách nghĩ, cách làm. Tôi cũng đồng ý với ý kiến TSKH Nguyễn Thị Hiền là phải tôn trọng thị trường, thị trường phải ra thị trường, không nên can thiệp quá sâu và “hành chính hóa” thị trường.

Một bài học nữa, đó là đội ngũ cán bộ các cấp phải luôn gần dân, hiểu dân và vì dân. Sở dĩ trước đây, một số nhà quản lý, doanh nghiệp dám “phá rào”, vì họ luôn sâu sát thực tiễn, hiểu những nỗi khổ và khát vọng của nhân dân. Họ dũng cảm cải cách chứ không lo “giữ ghế”, dù biết có thể bị kỷ luật, thậm chí đi tù…

PV: Xin trân trọng cảm ơn!

----------------
Bài 1: Ngọn cờ đổi mới

Bài 2: "Ông Kim Ngọc" ở Hải Phòng

Bài 3: Nữ anh hùng bán gạo

Bài 4: Cơn "địa chấn" ở Long An

Hoàng Tiến-Bích Trang (thực hiện)