Anh Mai Văn Luyện và con trai Mai Thanh Phong

Ngay sau khi chuyến đò định mệnh chở hơn 80 người dân bị đắm (vào sáng 25-1, tại xã Quảng Hải, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình) họ đã bất chấp hiểm nguy lập tức lao xuống dòng nước cứu người bị nạn và tham gia khắc phục hậu quả...

Trở lại Quảng Hải

Chúng tôi trở lại bến đò Quảng Thanh-Quảng Hải vào ngày 14 tháng Giêng âm lịch-ngày mà hầu hết người dân nước ta tổ chức lễ cúng Rằm tháng Giêng, cầu mong mọi điều tốt lành nhất. Từ trên con đê xã Quảng Thanh, nhìn sông Gianh xanh thẳm, chảy lững lờ; những chuyến đò ngang thưa người đang lặng lẽ qua sông, chẳng ai nghĩ, trên đoạn sông hiền hòa này vừa xảy ra một thảm họa đau lòng, cướp đi sinh mạng của 42 người dân, trong đó chủ yếu là người già, phụ nữ, trẻ em và cả những em bé sắp chào đời…

Đưa chúng tôi vượt sông Gianh sang xã Quảng Hải là anh Lưu-chủ đò ở xã Quảng Tân. Anh Lưu cho biết: “Từ hôm xảy ra vụ đắm đò, cũng có mấy người từ các xã lân cận đến chở khách qua sông, nhưng vì không chịu được cảnh đau lòng mỗi khi đi qua khúc sông này, nên mỗi đò chỉ chạy vài chuyến rồi nghỉ. Từ mồng 2 tết đến nay, tôi tình nguyện đến đây chở đò, đưa người dân và các đoàn công tác, cứu trợ qua sông. Khách nào lên đò, khi qua đoạn sông này cũng đều soi mắt nhìn sâu xuống dòng sông xanh thẳm như tìm kiếm, hay hình dung đến những người dân đang bám chặt vào nhau, la hét rồi bất lực chìm xuống dòng nước sâu lạnh buốt… Và ai cũng bật khóc”.

Đi qua vị trí con đò bị nạn, anh Lưu giữ mái chèo cho đò trôi thật chậm. Tôi cúi người, chạm tay xuống mặt nước lạnh buốt và dường như vẫn nghe văng vẳng tiếng kêu cứu của những người bị nạn… Câu thơ khóc thương những nạn nhân xấu số của một nhà thơ bỗng chốc ngân lên, nức nở: “Ngày cuối năm trời mây vần vũ/ Bến sông Gianh mờ phủ tóc tang/ Khôn ngăn lệ ứa đôi hàng/ Con nước lớn cuốn đò ngang biền biệt/ Người vợ trẻ khản lời thảm thiết/ Mẹ tìm con nào biết nơi đâu?/ Sông Gianh, thôi đã hết rồi!/ Âm dương chia cắt, đoạn đời tang thương… Bến sông Gianh cuối năm gió lạnh/ Nỗi tang thương thêm chạnh tấc lòng/ Vô thường trời nước mênh mông/ Khăn xô chít giữa tầng không khóc người”. Lặng nghe bài thơ khó ai ngăn được dòng nước mắt…

Đò vừa cặp bến, chúng tôi vào quán nước nhỏ, nằm ngay sát bến sông. Chủ quán-anh Cao Xuân Thí quấn trên đầu vành khăn tang trắng toát đang chuẩn bị đồ lễ và một bó hoa cầu khấn cho người vợ xấu số của mình. Bên cạnh anh Thí là 4 đứa con cũng quấn khăn tang, đứa nhỏ nhất mới hơn một tuổi. Anh Thí nghẹn ngào kể: “Sáng đó, nhà tui vừa nhận được tiền cứu trợ dành cho các hộ nghèo ăn Tết. Vợ tui cầm tiền sang bên tê sắm Tết. Đưa vợ lên đò, tui vừa quay vào quán thì đã nghe tiếng kêu cứu. Nhìn qua bên tê, tui thấy con đò đang chìm dần. Không có thuyền, tui chỉ còn biết đứng bên bờ sông trân trân nhìn cả một đám người chen chúc, trong đó có vợ mình đang hoảng loạn, cố bám vào nhau rồi cùng chìm dần xuống lòng sông…”.

Từ bến đò đến UBND xã Quảng Hải khoảng hơn 1km, đi qua các thôn Vân Trung, Vân Nam, chúng tôi không cầm được nước mắt khi chứng kiến cảnh nhiều ngôi nhà nghi ngút khói hương. Vành khăn trắng trên những mái đầu già có, trẻ có. Không khí tang tóc vẫn bao trùm lên toàn bộ xã đảo này.

Chúng tôi ghé thăm ngôi nhà chị Phạm Thị Hưng. Đã nửa tháng trôi qua mà chị chưa ra khỏi nhà, tay vẫn nắm chặt chiếc áo của cô con gái Cao Thị Vân. Trong nỗi đau tuyệt vọng, chị nức nở kể lại: “Khi thuyền gần đến bờ, một con sóng vô tình làm ướt những người ngồi bên thành đò. Những người này đồng loạt đứng dậy, khiến con thuyền chao đảo, nước tràn vào và…”. Giọng chị nghẹn lại, nấc lên từng tiếng, rồi nói tiếp: “Lúc nớ, tui chỉ kịp kéo tay con Vân cố bơi ra khỏi đám người. Nhưng rồi bàn tay của một người bị nạn đã kéo con gái tui lại. Trước khi chìm xuống nước, nó còn cố hét lên: “Mẹ cố bơi vào bờ đi!”. Lúc đó tui cũng kiệt sức chìm theo con, nhưng may được những người tham gia cứu nạn vớt lên”. Áp tấm áo của con vào khuôn mặt đã cạn khô nước mắt, chị Hưng gào lên nức nở: “Tại sao người được cứu không phải là con tui. Tui sẵn sàng đổi mạng cho con mà…”.

Trong ngôi nhà của nạn nhân Cao Thị Hiền, ở thôn Vân Nam, chúng tôi gặp bà Cao Thị Lợi, 70 tuổi (mẹ chị Hiền) đang bế trên tay đứa cháu nhỏ vừa tròn 14 tháng tuổi (con của chị Hiền). Tiếng bà Lợi ru cháu ngủ mà nghe sao bi ai: “À...a. à..ời, à...a.. à..ơi... Cái ngủ mày ngủ cho ngoan. Để mẹ đi cấy... à...a... đồng sâu chưa về. Bắt được con trắm con trê. Tóm cổ... à...a...lôi về nấu nước làm lông. Miếng thịt thì để phần ông. Miếng xương mẹ gặm... à...a...cỗ lòng phần con. À...a... à.... ời, à....a....à...ơi…”. Ngớt tiếng ru thắt ruột bà Lợi nghẹn ngào: “Bố cháu mất khi cháu còn nằm trong bụng mẹ, thế mà vẫn chưa hết khổ. Sáng 30 Tết, mẹ cháu gửi con cho tui nói đi chợ mua cho cháu ít sữa, sợ ngày Tết cửa hàng không bán. Thế mà bây giờ nó vẫn chưa mang được sữa về cho con…”. Trong chuyến đò định mệnh ấy, gia đình bà Lợi đã mất hai người con gái và một người con dâu.

Rời nhà bà Lợi, chúng tôi đến UBND xã Quảng Thanh, cánh cửa phòng Chủ tịch đóng kín. Một cán bộ xã cho chúng tôi biết: Chủ tịch UBND huyện Quảng Trạch, Đậu Minh Ngọc vừa ký quyết định tạm đình chỉ công tác đối với ông Đoàn Xuân Thiện - Chủ tịch UBND xã Quảng Hải vì để xảy ra vụ chìm đò. Tiếp chúng tôi là Phó chủ tịch UBND xã, Cao Xuân Ngọc. Anh Ngọc cho biết: Trong số 42 người thiệt mạng, có 7 trẻ em dưới 15 tuổi, 35 nạn nhân là phụ nữ; có chị đang mang bầu đến tháng thứ 8… Và nếu không có những người dân dũng cảm lao xuống dòng nước cứu người bị nạn thì con số thiệt hại còn lớn hơn nhiều. Bây giờ trong xã, bên cạnh những câu chuyện đau thương, mất mát, là lời cảm tạ, biết ơn của người dân Quảng Hải về những tấm gương dũng cảm đã góp phần cứu sống hơn 40 người khỏi tay thần chết….

Trong số những cái tên mà người dân Quảng Hải ghi nhận và biết ơn là vợ chồng anh Hoàng Út ở xã Quảng Thanh; hai anh em ruột Trần Quốc Thắng, Trần Quốc Hoàn ở xã Thạch Hóa, huyện Tuyên Hóa và bố con anh Mai Thanh Luyện, Mai Thanh Phong ở xã Đồng Hóa, huyện Tuyên Hóa…

Người thợ câu không biết chữ

Rời Quảng Hải, chúng tôi theo đò anh Lưu, trở lại bến đò Quảng Thanh. Từ bến đò, men theo triền đê, đi quá lên khoảng 100m là ngôi nhà nhỏ, đơn sơ của vợ chồng anh Hoàng Út và chị Cao Thị Yến. Trong ngôi nhà trống hoác của gia đình anh chị Út, hầu như không có vật dụng gì đáng giá. Đứa con nhỏ học lớp 5 đang đọc cho anh Út nghe nội dung từng tấm bằng khen, giấy khen của Tỉnh đoàn Quảng Bình, UBND huyện Quảng Trạch và Cục Đường thủy nội địa…vừa trao tặng.

Trò chuyện với anh Út, chúng tôi ai cũng cảm thấy ở người đàn ông miền sông nước này đức tính chân thực, hiền hậu, chịu thương chịu khó… Sinh ra trên mảnh đất Quảng Hải, trong một gia đình nghèo có tới 7 anh chị em. Là con út nên anh Út phải chịu nhiều thiệt thòi. Học hết lớp một, vừa biết mặt chữ cái, anh Út đã phải nghỉ học để giúp bố mẹ đi câu, chài lưới trên sông kiếm sống. Vừa đủ sức cầm được tay chèo, anh theo thuyền đi bạn (làm thuê cho các tàu thuyền đánh bắt cá xa bờ) cho tới tận bây giờ. Anh bảo: “Mỗi chuyến đi bạn chừng nửa tháng, nhưng cũng chỉ được chủ thuyền trả công từ 500 nghìn đến một triệu đồng, tùy theo kết quả đánh bắt. Bởi thế, lâu nay gia đình tôi cũng chỉ đủ ăn. Mơ ước đóng được con thuyền nhỏ, cùng ngư dân đi biển đánh bắt cá mà bao năm vẫn chưa thành hiện thực”.

Anh Hoàng Út

Trở lại với hành động dũng cảm vào sáng sớm ngày 25-1, anh Út kể lại: “Sáng đó, tui vừa dắt xe ra đến cổng, định đi mua vài thứ về làm mâm cơm cúng tổ tiên, thì nghe tiếng kêu thất thanh: “Ối! ông bà ơi, đò lật rồi. Cứu với…!!! Nhìn ra phía bến đò, tôi thấy chiếc đò đang chao đảo. Một số người đã bị ngã xuống sông, còn lại thì chới với trên chiếc đò đang dần bị dòng nước nhấn chìm. Tôi bỏ chiếc xe, chạy ngược lại bến sông, nơi có con đò của anh Mai Thanh Luyện (anh Luyện là bạn của tôi) đang đỗ ngay bến trước nhà, dùng dao chặt đứt dây neo rồi gọi cháu Hoàn và Phong (Phong là con trai anh Luyện và cháu Hoàn, cháu ruột anh Luyện) cùng lên thuyền, nổ máy lao về phía bến đò Quảng Thanh. Gần đến nơi, tôi bàng hoàng khi thấy con đò đã chìm một nửa. Nhiều người đang ôm chặt lấy nhau, la hét hoảng loạn. Một số người nhảy xuống sông nhưng vì hôm đó trời rất lạnh, ai cũng mặc nhiều áo, nên quần áo bị ngấm nước, bó chặt vào người. Nhiều người dù biết bơi cũng không bơi được, cứ chìm dần. Tôi dừng đò ngay sát bên chiếc đò đang chìm. Một số người bị nạn nhoài người bám được vào thành đò của tôi, nhưng còn rất nhiều người không biết bơi cứ ôm chặt lấy nhau, quẫy đạp trong vô vọng…

Ngay lập tức, không ai bảo ai, Hoàn và Phong lao xuống nước, vừa bơi, vừa dìu từng người bị nạn đến mạn thuyền. Tôi vừa điều khiển thuyền tiếp cận người bị nạn, vừa kéo những người đang bám tay vào mạn thuyền lên. Hầu hết những người vừa được đưa lên thuyền đều đã sặc nước và ngấm lạnh, có người đã ngất. Tôi vừa làm động tác sơ cứu, vừa điều khiển thuyền đến những nơi có cánh tay nhô lên vẫy…Có lúc, tôi không thấy Hoàn đâu, quay lại thì thấy hai người phụ nữ đang bám chặt hai chân Hoàn, còn cháu thì cố dùng hai tay khỏa nước nhoài người về phía thuyền cứu nạn. Tôi nhanh chóng giúp Hoàn cùng đưa người bị nạn lên thuyền. Phía mạn thuyền bên kia, Phong cũng đang ngụp lặn, xốc từng người lên khỏi mặt nước, tiếp cận với các thuyền đến cứu nạn…Chừng hơn 20 phút sau, mặt sông phẳng lặng trở lại, nhìn quanh, không còn ai nổi trên mặt nước, chúng tôi mới chở những người vừa cứu được lên bờ. Lúc này trên thuyền đã có hơn 30 người được vớt lên…” (theo thống kê của UBND xã Quảng Hải, thì chiếc thuyền cứu nạn của anh Út hôm đó đã cứu được 36 người dân) .

Theo lời anh Út kể thì đến lúc này thông tin về vụ đắm đò đã nhanh chóng lan ra khắp hai xã Quảng Hải và Quảng Thanh. Tất cả đều chạy ra bờ sông, cầu mong điều xấu nhất không diễn ra với người thân của mình. Tiếng vợ tìm chồng, con khóc cha, trẻ nhỏ tìm mẹ càng làm cho không khí nơi đây tang thương hơn. Tất cả đều hướng cặp mắt vô hồn ra phía dòng sông lạnh ngắt. Chẳng ai bảo ai, nhưng họ đều nguyện cầu cho người thân của mình bình yên trở về.

Dưới dòng sông, mọi phương tiện cứu hộ được huy động tối đa. Lực lượng cứu hộ và nhiều người dân Quảng Hải lao ra giữa dòng sông mong sao bằng mọi cách cứu sống những người gặp nạn.

Lúc này, hy vọng tìm thấy người sống đã không còn. Anh Út, cháu Hoàn, cháu Phong, anh Luyện và Thắng cùng các đội cứu hộ bắt đầu lặn tìm những nạn nhân tử nạn. “Ngay trong sáng hôm ấy, chúng tôi đã vớt được 40 xác người” – anh Út khẽ lau nước mắt nói.

Nhìn lên những tấm bằng khen, giấy khen, anh Út nghẹn ngào, nói như trách mình có lỗi với những người tử nạn: “Chỉ tiếc là sức mình có hạn, sông thì sâu và nước sông lạnh buốt, nên không thể cứu được nhiều hơn”.

Chia tay, anh Út tiễn chúng tôi ra tận bến đò. Trên đường đi, anh nói: “Khi bố tôi còn sống vẫn kể cho con, cháu nghe chuyện, trong những năm chiến tranh chống Mỹ, cứu nước, bố tôi và người dân trong xã đã tình nguyện chở đò đưa bộ đội qua sông vào Nam chiến đấu dưới làn mưa bom, bão đạn của kẻ thù. Hồi ấy, bố tôi cũng đã ước: Giá như ở đây có một chiếc cầu. Nhà tôi nghèo, nên bản thân chỉ học hết lớp 1, nay đã quên hết mặt chữ. Tôi có 3 đứa con, sẽ cố chăm cho chúng học thật giỏi. Nhất định sau này phải có một đứa thi đỗ làm kỹ sư, đi xây dựng những cây cầu vững chãi bắc qua khắp các con sông của đất nước”.

Cùng có mặt với chúng tôi ở xã Quảng Hải hôm đó còn có cán bộ, công nhân tập đoàn Hải Châu Việt Nam đến thăm, tặng quà người dân Quảng Hải. Ngoài số tiền 47 triệu đồng hỗ trợ các gia đình có người thân bị nạn và tặng những cá nhân có hành động dũng cảm cứu người, đại diện Tập đoàn còn có kế hoạch tặng xã Quảng Hải một chiếc đò máy chở khách cùng toàn bộ thiết bị bảo đảm an toàn đường sông.

(còn nữa)

Bài và ảnh: PHÚ SƠN-HỒNG THẠNH