Các cựu tù binh vượt ngục về thăm nghĩa trang tù binh Phú Quốc.

L.T.S: Trại giam tù binh Phú Quốc hay còn gọi nhà lao Cây Dừa trong vòng 6 năm (1967 -1973) là nơi giam cầm hơn 40.000 tù binh cộng sản, nơi hành hạ dã man, tàn bạo những người lính vừa bị bắt về từ chiến trường với những thủ đoạn dã man còn hơn cả thời trung cổ. Vậy nhưng, đã có hơn 40 lần với hơn 400 tù binh vượt ngục, trong đó có hơn 200 người còn sống trở về tiếp tục cầm súng. Hơn 30 năm trôi qua, hơn 200 người tù vượt ngục ngày ấy nay ở đâu? Phóng viên báo Quân đội nhân dân đã lần theo bước chân họ, ghi lại những câu chuyện vượt ngục ly kỳ đến khó tin cùng những câu chuyện đời bi tráng, rất cần sự cảm thông, chia sẻ...

Kỳ 1: Bóng cờ sau ô cửa

Tôi bắt đầu hành trình đi tìm những người tù vượt ngục Phú Quốc năm xưa bằng một thủ pháp thông thường: vào mạng internet, nhờ công cụ tìm kiếm số một thế giới google.com gõ “nhà tù Phú Quốc”. Thật buồn, kết quả hoàn toàn không như mong đợi, chỉ có khoảng 5 bài viết về nhà tù này, số bài viết riêng về những người tù Phú Quốc vượt ngục hoàn toàn… không có.

Tay trắng ra Phú Quốc với hành trang kiến thức khá…lơ mơ, tôi cũng chẳng thu lượm được gì nhiều hơn khi ghé thăm di tích nhà tù Phú Quốc, nay sơ sài vài căn nhà dựng tôn, những bãi đất trống, dăm chục bức ảnh tư liệu trong phòng trưng bày. Song từ đây, đã hé lộ cho tôi những thông tin quý: Theo thống kê thì trong 6 năm tồn tại của nhà tù Phú Quốc, trong số hơn 40.000 tù binh, đã có hơn 400 người vượt ngục, chia làm hơn 40 cuộc, nhiều cuộc rất tài tình, ly kỳ: đào hầm dăm lần, chui rào vượt 14 lần, đánh quân cảnh cướp súng trốn 16 lần, thậm chí tay không đường hoàng đi ra khỏi trại cũng có! Thầm nghĩ, chỉ cần tìm gặp lại được họ, cũng đủ chuyện hay, tôi càng củng cố quyết tâm đi tìm. Hỏi ban quản lý di tích, họ cho hay, hiện có một “người hùng vượt ngục” là anh Ba Toản, đang sống ngay trên đảo Phú Quốc. Tôi vội vã bắt xe lên thị thấn Dương Đông thì rủi thay, anh Ba Toản vừa về quê ở Thái Bình. Xin số điện thoại, từ bên kia đầu dây, giọng một người đàn ông mệt mỏi:

- Chuyện vượt ngục hả! Chú em lên Thành phố Hồ Chí Minh, hỏi Ban liên lạc tù binh Phú Quốc vượt ngục nhé!

Nghe thông tin, tôi mừng rơn. Trở về đất liền, tôi vội vàng gọi điện cho Ban liên lạc tù binh Phú Quốc vượt ngục.

Chỉ ba mươi phút sau khi tôi điện thoại, hai người đàn ông mang trên mình bộ quân phục bạc màu đã đến đón tôi ở trụ sở Ban đại diện phía Nam Báo Quân đội nhân dân. Một người tên là Tư Dũng, giữ chức Phó trưởng ban thường trực của Ban liên lạc, một người là Ba Hà, thư ký của Ban. Hai anh đều là cựu tù binh vượt ngục, hiện nghỉ hưu ở Thành phố Hồ Chí Minh. Gặp tôi, các anh mừng rỡ vô cùng vì đã quá lâu rồi mới có người hỏi thăm những người tù Phú Quốc vượt ngục. Đêm ấy, tôi ngủ lại ở nhà anh Ba Hà. Mấy anh em vừa lai rai, vừa kể tôi nghe câu chuyện nhà lao Cây Dừa năm xưa…

Một con muỗi không lọt qua

- Muốn viết về những cuộc vượt ngục, chú em phải hiểu nhà lao cây Dừa là cái gì, nó khốc liệt ra sao đã chớ! Đừng có mà như mấy cha nhà văn nhà báo nghe kể rồi “bốc thuốc” thêm đó nghen! Anh Tư Dũng dặn dò.

- Nhà lao Cây Dừa nó khốc liệt thế nào hả? Chú mày cứ nhìn hình dạng anh Tư đây thì thấy liền. Lưng còng, tay khòng, ngón tay quăn queo đó! Vì sao hả! Bọn quân cảnh nó “nện” đó, xương sườn gãy đây nè! Ngon lành hén?

Tôi mắt tròn mắt dẹt còn anh Ba Hà thì như người “lên đồng”. Như chạm vào một mạch ngầm quá khứ, anh nâng ly rượu, nước mắt nhạt nhòa…

Cố Thượng tướng Trần Văn Trà, nguyên Tư lệnh các LLVT giải phóng miền Nam: “Tôi viết những dòng giới thiệu này mà lòng quặn đau khôn tả. Đau vì đạo đức loài người đã có thời quá thoái hoá để đối xử giữa người với người như những súc vật hoang dã hay còn hơn thế nữa. Những người quan tâm đến vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, hãy đến Phú Quốc để biết thế nào là “chuồng cọp kẽm gai”, “lộn vỉ sắt”, “đánh bằng chày vồ”, “gậy bỏ cháo”, “roi cá đuối”, “bẻ răng”, “lấy móng tay, móng chân”....

Trong lịch sử đấu tranh cách mạng của đất nước ta từ khi có Đảng, kẻ thù đã dùng rất nhiều nhà tù để giam cầm những người đấu tranh vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Nhưng có lẽ, ấn tượng nhất, quy mô lớn nhất phải kể đến hai nhà tù: Côn Đảo và Phú Quốc. Những năm kháng chiến chống Mỹ, nếu như nhà tù Côn Đảo là nơi chuyên giam giữ những tù nhân chính trị thì nhà tù Phú Quốc là nơi chuyên giam giữ tù binh. Nhà tù Phú Quốc còn có tên gọi là nhà lao Cây Dừa vì vùng đất này từ thời Pháp thuộc có nhà tư sản Pháp cho phu phen từ miền Trung vào lập đồn điền trồng rất nhiều dừa. Những năm 1942, 1943, sau Nam Kỳ khởi nghĩa, Pháp đã thiết kế, tập hợp nguyên liệu xây nhà lao song chưa kịp xây thì Cách mạng Tháng Tám nổ ra. Độ những năm 1952, 1953, nhà lao hình thành, giam giữ 2.000 - 3.000 chiến sĩ Cách mạng. Nhưng đến thời Mỹ - ngụy, nhà lao Cây Dừa mới thực sự biến thành địa ngục trần gian. Những năm đó, không còn cây dừa nào, mà Mỹ - ngụy san nơi đây thành bình địa, lập nên những trại giam bằng tôn, sắt, dây thép gai khổng lồ, dài dằng dặc. Ngay từ những năm đầu khi Ngô Đình Diệm lên nắm quyền đã cho gạn lọc, chuyển tù chính trị ra Côn Đảo. Riêng tù binh chúng đưa ra Phú Quốc. Từ khi thành lập năm 1967 đến khi kết thúc Hiệp định Pa-ri (1973), nhà tù Phú Quốc đã giam giữ hơn 40.000 tù binh cộng sản, diện tích nhà tù lên tới 400 héc-ta.

- Chú em nên nhớ, muốn vượt ngục ở Phú Quốc, không dễ gì, một con muỗi cũng khó vượt qua. Trại giam chia làm 12 khu, mỗi khu có 4 phân khu. Các phòng giam đều có kèo sắt, nóc tôn, vách tôn, dưới vách tôn có 3 tấc rào kẽm gai. Chung quanh mỗi phân khu có nhiều lớp hàng rào kẽm gai dày đặc, giữa các lớp kẽm gai là ba lớp bùng nhùng. Bên ngoài và bên trong các lớp rào kẽm gai lại có 2-3 lớp bùng nhùng nữa. Giữa các lớp rào có trái sáng gài sẵn để nếu tù binh chạy trốn thì nó bật lên. Chung quanh phân khu, bên trên các lớp rào có đèn điện chiếu sáng từ 18 giờ chiều đến 6 giờ sáng hôm sau. Giữa các lớp kẽm gai và bùng nhùng có đường đi thông suốt để tuần tra, ban đêm có thả chó béc-giê hoặc ngỗng. Tù binh bị cấm đứng gần lớp bùng nhùng, đứng là chúng bắn liền! Còn lực lượng coi giữ ư? Đông như "quân Nguyên" luôn. Đứng đầu là một trung tá cố vấn Mỹ điều hành mọi chuyện. Kế đó, phải kể đến Bộ chỉ huy quân cảnh do một sĩ quan trung tá, có lúc lên tới cấp chuẩn tướng cầm đầu. Riêng lực lượng canh giữ có tới 4 tiểu đoàn quân cảnh - loại lính được lựa chọn kỹ, rất trung thành, phần nhiều hận thù cách mạng. Có những tên gần như mất hết tính người, thường xuyên đánh đập tù binh, đánh trả thù, đánh… cho vui. Cộng với đó, phải kể đến một trung đội… chó béc-giê, một hải đoàn hải quân giăng kín ngoài bờ biển. Tính ra, cứ hai người tù có một lính canh giữ. Giám thị, quân cảnh ngày đêm tuần tra, điểm danh, chống tù vượt ngục. Chúng làm riết lắm! Càng có tù vượt ngục, chúng càng làm riết. Bởi sơ sểnh, để anh em mình trốn, chúng sẽ bị đày ra chiến trường hứng đạn nên giữ tù binh cũng là giữ mạng chớ có phải chơi đâu!

Tái hiện thời trung cổ

Là nơi giam giữ những người lính vừa bị bắt từ chiến trường trở về nên kẻ thù áp dụng tất cả những chính sách tra tấn, đàn áp dã man, tàn bạo nhất. Chúng muốn họ từ tù binh trở thành phế binh, để nếu có trở về thì cũng không thể cầm súng. Theo báo cáo của Ban liên lạc tù binh vượt ngục Phú Quốc, nhiều thủ đoạn tra tấn dã man đã được thực hiện như: bỏ người vào bao bố đổ nước sôi cho đến chết, luộc người trong chảo nước sôi, đóng đinh 8-10 phân vào người tù, nướng người như nướng… cá lóc, rà đèn điện cho mù mắt, đổ nước xà bông vào miệng, đốt miệng và đốt hạ bộ, chôn sống tù binh, xả súng giết người hàng loạt… Trong 6 năm, địch đã giết hơn 6.000 người. Cố Thượng tướng Trần Văn Trà, nguyên Tư lệnh các LLVT giải phóng miền Nam, người đã trực tiếp đón tiếp, làm việc với một tổ tù binh vượt ngục Phú Quốc trở về năm 1971 từng phải thốt lên: “Tôi viết những dòng giới thiệu này mà lòng quặn đau khôn tả. Đau vì đạo đức loài người đã có thời quá thoái hóa để đối xử giữa người với người như những súc vật hoang dã hay còn hơn thế nữa...”.

Bóng cờ qua ô cửa

Ông Trần Văn Kiêm, cựu tù Phú Quốc, hiện là một trong những chuyên gia nghiên cứu về nhà tù Phú Quốc kể rằng: Một buổi sáng mùa xuân năm 1969, trên đỉnh núi cao gần bãi Khem bỗng dưng xuất hiện lá cờ sao vàng “nửa đỏ nửa xanh” của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam phần phật tung bay. Chừng một tiếng sau thì kẻ địch đã la ó điên cuồng, cho quân leo lên hạ lá cờ xuống. Nhưng hàng ngàn ánh mắt tù binh đã kịp nhìn thấy bóng cờ qua ô cửa nhà lao. Với tù binh Phú Quốc, đây là một sự kiện lớn. Bóng cờ giúp anh em vững tin hơn ở ngày mai, tin rằng cách mạng vẫn ở bên mình, tin vào tiền đồ của sự nghiệp “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Với nhiều người, bóng cờ như tiếp thêm ngọn lửa khát vọng vượt ngục, trở về tiếp tục cầm súng.

Thật ra, không phải ngẫu nhiên mà lá cờ ấy xuất hiện. Lá cờ ấy do huyện ủy Phú Quốc cắm, như ngầm gửi gắm một thông điệp tới những người đồng chí trong lao tù. Kẻ thù lập nhà lao năm 1967 thì đầu năm 1968, nghĩa là chỉ chừng mấy tháng sau, đã có những người lính quả cảm đầu tiên vượt ngục, tìm về với chính quyền cách mạng của ta ở phía bắc đảo Phú Quốc. Huyện ủy Phú Quốc rất quan tâm tới anh em tù binh. Từ năm 1971, khi anh em tù binh vượt ngục ngày một đông, huyện đã cho thành lập một ban chuyên lo đón tiếp tù binh vượt ngục do một đồng chí huyện ủy viên phụ trách.

Trước khi bóng cờ xuất hiện, ý chí, khát vọng vượt ngục của những tù binh vẫn luôn âm ỉ cháy. Là lính chiến, kinh nghiệm một thời trận mạc trở thành kiến thức quý giá để họ lặng lẽ điều tra, nghiên cứu cách bố phòng của địch, tìm ra những quy luật, những kẽ hở để rồi “đùng một cái”, hàng loạt cuộc vượt ngục táo bạo và ly kỳ có một không hai trong lịch sử các trại giam tù binh đã diễn ra. Không ít cuộc vượt ngục đã gây chấn động dư luận thế giới, được nhiều hãng thông tấn lớn đưa tin với nhiều câu hỏi khó lý giải về “phép màu xuất quỷ nhập thần của những tù binh cộng sản”. Nhưng sự thật thì chẳng có phép màu nào cả. Gần 30 cuộc vượt ngục thành công đã chứng minh vai trò vô cùng quan trọng của các đảng bộ trong các trại giam tù binh đã lãnh đạo, chỉ đạo “từng ly” mọi cuộc vượt ngục. Bạn đọc sẽ thấy rõ hơn vấn đề này ở các bài viết tiếp theo…

(Kỳ 2: Một mình thoát bầy sói)

Bài và ảnh: NGUYỄN VĂN MINH