QĐND - Tôi được đi cùng hướng dẫn viên Mã A Sàng, người bản Cát Cát. A Sàng năm nay 24 tuổi, đã có vợ và hai con, con lớn 5 tuổi. Vợ A Sàng làm nông nghiệp. Mấy năm gần đây, trên đất SaPa có thêm nghề trồng thảo quả. Thu nhập từ thảo quả khá bấp bênh một phần do giá cả lên xuống thất thường, phần nữa do mùa vụ năng suất không ổn định, vậy nên công việc của vợ A Sàng cũng chỉ coi như nghề phụ. Mọi thu nhập đều trông chờ vào tài “chạy vạy” của A Sàng.

Mỗi chuyến đi với du khách của A Sàng kéo dài gần 2 ngày, thu nhập trên dưới 600 nghìn đồng. Vào mùa cao điểm du lịch, mỗi tuần A Sàng cũng dẫn được 4 lượt. Thu nhập như vậy là rất khá so với phần lớn số gia đình người Mông ở đây. Tôi quý A Sàng vì cậu này rất có chí tiến thủ. A Sàng kể giờ chỉ phải lo cho thằng em học hành đầy đủ, còn như A Sàng chỉ học hết lớp 7, cái đầu tăm tối lắm. Lớp 7, bỏ học, A Sàng đi làm pót-tơ mất mấy năm. A Sàng từng làm nhân viên trồng rừng cho hạt kiểm lâm Hoàng Liên Sơn, được chưa đầy 1 tháng thì bỏ. Lý do lương ít. Trước khi chia tay, cậu ta đến bảo với anh phụ trách trạm: “Mình không làm nữa đâu. Làm một tháng tiền không bằng đi “gai” một chuyến”. Anh phụ trách nói khích: “Mày có biết tiếng Anh không mà đòi đi gai”. A Sàng tuyên bố: “Giờ về mình sẽ học”. Thế là cậu ta trở lại với nghề pót-tơ. Chuyến nào đi với khách tây là hắn cố gắng bám theo học tiếng, lúc nào không có việc làm lại đi bộ lên SaPa học tiếng Anh trong các lớp miễn phí. Tiếng Anh của A Sàng thuộc loại “bồi điên đảo”, nhưng vớt lại, cậu ta biết rất nhiều từ. Giờ A Sàng có thể kể chuyện cười, ghẹo du khách. Khách quý lại “bo” thêm tiền. Trông cậu ta có vẻ rủng rỉnh lắm.

Thổi khèn trên đỉnh Phan Xi Păng.

Hôm gặp tôi, A Sàng khoe có cái khèn đẹp lắm, tiếng hay lắm, trước nay vẫn dùng cái khèn này múa ở sân vận động SaPa kiếm tiền “bo” của du khách. Cậu ta nói với kiểu giọng ngây thơ “cụ”: Em tặng anh cái khèn, anh tặng lại em 500 nghìn đồng, được không? Đương nhiên là tôi chẳng mua khèn của A Sàng, một phần do chẳng có hứng thú, phần nữa là cảnh giác trước cái trò mua bán giời ơi đất hỡi này.

Sau này mới biết, điều tôi cảnh giác có phần đúng. A Sàng kiếm bộn tiền nhờ cái trò bán đồ lưu niệm cho du khách. Một trong những tuyệt chiêu mà A Sàng “bật mí” là mang theo đồ lưu niệm trên đường leo lên đỉnh Phan Xi Păng. Cứ đến điểm dừng chân, nghỉ ngơi là hắn bày ra, khèn thì thổi, lục lạc thì rung lắc, đôi khi nghe chẳng ra điệu gì nhưng cũng vui tai, hấp dẫn du khách. Và trong khung cảnh thân tình, khách thì vừa nể vừa quý anh hướng dẫn viên du lịch chất phác nhưng mau mồm, không ít vị đã xì tiền ra mua những món đồ của A Sàng.

Có những chuyến đi rét mướt, đỉnh Phan Xi Păng đóng băng trên cả những bông lau, vách đá, A Sàng lại cầm theo trà, cà phê, chè quế, chè hồi… nghỉ chân là hắn hì hục nấu nấu pha pha, thơm điếc mũi, ngửi không cũng đã thấy ấm lòng ấm dạ. Mấy ông khách tây dù đến từ xứ lạnh, quen với cà phê nóng cũng phát thèm. Nhiều người đòi uống. Hắn lấy tờ hợp đồng ra giải thích hướng dẫn viên không có nhiệm vụ mang vác, phục vụ đồ ăn nhé, thế nên mấy thứ đồ uống này không nằm trong danh mục miễn phí, muốn uống phải trả tiền. Hắn nói có lý, nhiều vị khách bỏ vài đô-la ra mua một tách trà, tách cà phê. Giữa lưng chừng núi, những món hắn mang lên thành của quý, ngẫm ra giá cả thế cũng là phải chăng. A Sàng cười hì hì: “Em biết thế là không lịch sự… nhưng vẫn đúng lý mà”. Cậu ta nhấn mạnh ở mấy từ “đúng lý mà”. Theo tôi hiểu thì cậu ta quả là biết vận dụng “lý” cho việc kiếm tiền. Tôi hỏi: “Sao em phải kiếm tiền nhiều thế. Người Kinh gọi thế là tham đấy”. Giọng A Sàng bỗng bùi ngùi: “Cả nhà em nay chỉ trông đợi vào thằng em út. Em muốn nó học lên đại học cho đỡ khổ. Bố em giờ không làm được nhiều nữa, nói là giao thằng em cho mày lo…”. Tôi chợt thấy sống mũi cay cay. Tôi ân hận vì đã bảo cậu ta tham.

Thú thực là xưa nay, tôi từng nghe nhiều về cụm từ “cái lý người Mông”, nghe vậy biết vậy chứ còn tường tận về ý nghĩa ra sao thì rất mù mờ. Nhân chuyến leo đỉnh Phan Xi Păng này, tôi được dịp biết thêm về “cái lý người Mông”.

Thực ra cũng đơn giản, lý người Mông chỉ ra rằng điều hay lẽ phải, điều đúng, điều mọi người hay làm thì ta nên theo, vậy thôi. Thú vị là ở chỗ “cái ý” chỉ cho trái tim người Mông lẽ phải, từ đó mà ưng theo, mong muốn thực hiện. Ví dụ thế này nhé. Khi chàng trai thầm yêu trộm nhớ cô gái và cũng được cô gái đồng cảm, chàng trai sẽ tổ chức một nghi thức gọi là “kéo vợ”, hoặc “bắt vợ”. Sự việc “kéo vợ” này diễn ra có thể gia đình cô gái cũng không được biết. Sau ba ngày “chú rể “phải mang rượu, mang lễ đến thông báo với bố mẹ vợ. Bố mẹ sẽ cho phép con gái về “thay áo” để rồi sang làm dâu nhà khác. Lễ cưới sẽ được đôi bên thông gia chọn ngày, chọn giờ. Thời điểm lễ cưới có thể sau nghi lễ “kéo vợ”, một tháng, một năm hoặc vài năm, tùy điều kiện hoàn cảnh từng gia đình. Tục “kéo vợ” nhiều người đã biết, song cái “lý” đứng ở đâu trong trường hợp này? Cái “lý” lúc này là lề thói.

Tôi hỏi lại “Trường hợp thanh niên kéo vợ rồi nhưng lại không báo với gia đình nhà vợ thì sao?”. “Thì phải phạt lợn, phạt trâu, phạt rượu”. “Thế người ta không chịu bỏ tiền phạt thì sao?”. Cậu trai người Mông mới 17 tuổi ngần ngừ một lúc rồi mới trả lời: “Thì không đúng lý người Mông”. Tôi buột mồm định hỏi “thế người ta không cần lý thì sao” nhưng may kìm lại được. Tôi hiểu rằng, trong trường hợp này “cái lý” chính là chế tài. Sự trừng phạt lớn nhất mà người Mông dành cho những người sống trên “cái lý” là sự xa lánh. Tôi nghĩ, sống cô độc giữa núi rừng và cộng đồng sẽ còn đau khổ gấp trăm nghìn lần sự trừng phạt nào khác.

Trong chuyến chinh phục đỉnh Phan Xi Păng, tôi gặp không ít hướng dẫn viên như A Sàng. Tất cả đều rất tận tụy với công việc. Trên những con dốc dài, không ít lần, tôi được họ chìa tay giúp đỡ. Đường đi xa lắc, mắt nổ đom đóm vì mệt mỏi. Không hề quá lời khi nói rằng, hành trình chinh phục đỉnh Phan Xi Păng là hành trình chinh phục chính bản thân mình. Trong cuộc chinh phục ghê gớm này, những lời động viên quả là liều thuốc bổ. Tôi đi sau những bước chân thoăn thoắt của người dẫn đường, vừa đi vừa nghĩ, sau mỗi bước mình sẽ cao hơn mình một bước. Cả cuộc đời là một hành trình phấn đấu không mỏi mệt. Giữa hành trình này, ta có thể dừng chân đứng nghỉ nhưng quyết không được trở xuống. Chỉ có bước tiếp về phía trước ta mới thành công. Hành trình cuộc đời của tôi, của A Chớ, A Sàng, A Dàng và của nhiều người khác nữa có thể rất khác nhau nhưng chúng tôi có điều chung là đều tiến về phía trước. Tôi đã thấy đường chân trời sau những đỉnh núi. Tôi ngỡ ngàng với sức mạnh của ý chí. Vâng, tôi đã leo lên đỉnh Phan Xi Păng với sức mạnh của ý chí vì nếu chỉ bằng sức lực của cơ bắp, chắc tôi sẽ trở lại ngay khi chạm tới điểm cao 2000. Hành trình lên đỉnh Phan Xi Păng giúp tôi hiểu giá trị của những người cộng sự. Tôi biết, nếu không có họ, tôi sẽ chẳng làm được gì.

Cảm xúc mặt trời.

Những ngày dừng chân ở Sa Pa, tôi mới có dịp tìm hiểu kỹ hơn về những người cộng sự, những người Mông hiền lành chất phác, được chứng kiến cái ý chí cao vời vợi của người chỉ muốn sống trên cao, nơi gần mặt trời.

A Sàng kéo tôi vào một quán bia trên vỉa hè của phố Cầu Mây. Chỗ ngồi đã lóc nhóc mấy đứa trẻ con. A Sàng giới thiệu là hai đứa cháu và một đứa em. A Sàng chỉ mặt từng đứa nói: “Ta mời anh ra đây nói cho bọn mày biết về sự đời. Chúng mày chê ta ít học, cái đầu tăm tối. Chúng mày nói đúng. Giờ ta mời anh có cái đầu sáng hơn, nói chúng mày phải nghe”.

Hai đứa cháu A Sàng năm nay 14, 15 tuổi. Em A Sàng tên là A Mình, 17 tuổi, đang học lớp 11 tại Trường Trung học dân tộc nội trú Sa Pa. A Mình trông mặt sáng sủa, ngoan ngoãn. A Sàng chỉ thằng em kể với tôi: “Hôm nọ em phải tát nó vì dám bỏ học đi chơi trò chơi điện tử. Anh nói cho nó hiểu đi, trò chơi điện tử chẳng ích lợi gì”. Tôi ngạc nhiên vì những trò chơi tưởng chỉ có ở thành thị giờ cũng đã có mặt ở thị trấn này. Tôi bảo với A Mình, em có lợi thế hơn A Sàng nhiều lắm. Này nhé, em không phải kiếm tiền nuôi gia đình, em chỉ phải tập trung vào học tập. Việc em là phải học cho giỏi, đại học với các em gần lắm, được cộng điểm, được ưu tiên, có học bổng… Em không học thì sẽ phí hoài đi những ưu đãi của toàn xã hội. Tôi thấy mắt A Mình cứ sáng mãi. A Mình có vẻ thích môn Lý, khoe rằng hiện đang học về điện tử. Tôi lại khoe rằng, ngày học lớp 11 như em tôi đã theo sơ đồ trong sách mà ráp được một chiếc đài thu sóng AM. Nó ngạc nhiên lắm. Tôi “bồi thêm” rằng, tất cả những thứ em đang học từ trường phổ thông đều có thể mang ra áp dụng vào cuộc sống, với kiến thức trong đó, em sẽ chế tạo được nhiều thứ đồ điện tử tưởng rất phức tạp. Nó tin tôi. Cuối cùng nó cả quyết sẽ nhất định vào được đại học. Tôi nói ừ phải. Rồi lại tò mò hỏi thêm nó đã có vợ chưa. Nó cười bẽn lẽn bảo “suýt có”. Năm ngoái, mẹ cũng đã bảo nó lấy vợ đi, nó bảo còn phải học. Nắm bàn tay chai sạn trước tuổi của A Mình, tôi muốn truyền cho em tất cả tâm tình của tôi với người Mông. Tôi hứa: Nếu vào đại học ở Hà Nội, đến anh, anh sẽ giúp! Tôi biết người Mông trọng lời hứa, chỉ thân nhau mới hứa.

Trai Mông ở SaPa lấy vợ từ rất sớm. Cả bản Cát Cát hiếm có anh nào ngoài hai mươi mà chưa có con. Lấy vợ sớm rồi lại đẻ dày, đâm ra cái nghèo, cái cực cứ đeo đẳng mãi. Tôi không định làm thay vai trò của anh cán bộ tuyên truyền về dân số và kế hoạch hóa gia đình, và hoàn toàn không có ý định thay đổi tập tục của người Mông, nhưng khi ngồi với mấy đứa cháu của A Sàng mặt mày còn non nớt đang rập rình đi “kéo vợ”, tôi thấy lo lắng cho tương lai của chúng, khuyên nhủ mấy câu: “Cố gắng làm hướng dẫn viên du lịch như A Sàng, kiếm được đồng tiền nuôi gia đình vợ con thì đời đỡ khổ”. Mấy thằng cháu hếch mũi cười toe toét.

Trong cuộc vận động nhỏ này, tôi thấy may mắn là đã có A Sàng làm tấm gương-một tấm gương rất gần gũi. Tôi thoáng nghĩ, nếu đứa nào cũng chăm học, rồi đi học đại học hết thì còn ai làm pót-tơ, ai làm hướng dẫn viên du lịch dưới chân núi Phan Xi Păng đây. Bất giác tôi cười với ý nghĩ “vơ vẩn” ấy vì khi nhìn vào mắt những người SaPa, tôi biết họ yêu đỉnh núi này. Bên núi đã có nhiều người vươn lên trong cuộc sống, núi đã chở che và nuôi lớn họ. Nếu có điều kiện về vật chất và tri thức, chính họ sẽ là những con người gìn giữ núi xanh, đẹp ngàn đời.

Đêm trước hôm chia tay với thị trấn SaPa, A Sàng đến tặng tôi cây khèn. Nó không đòi tôi tặng lại tiền như đã từng nói…

Bài và ảnh: Lê Đông Hà

Những mặt trời bé con bên núi Phan Xi Păng (Phần 1)