QĐND Online - Tiểu đoàn vận tải 232 (Cục Hậu cần Quân khu 5) có 98% quân số là nữ, được thành lập đúng vào dịp kỷ niệm 58 năm ngày quốc tế phụ nữ (8-3-1968). Trải qua 4 năm công tác, chiến đấu và phục vụ chiến đấu, dấu chân người chiến sĩ “Hai Ba Hai” đã in khắp vùng núi Quảng Nam, Quảng Ngãi, Gia Lai, Kon Tum, đường 9 Nam Lào, từ dốc Lò Xo đến Hòn Kẽm, Đá Dừng, đèo Le, đèo Phượng Tổng v.v…. Luồn rừng, băng đèo, lội suối, dưới những cơn mưa tầm tã hay cái nắng cháy da, cái rét cắt thịt, cõng hàng gấp 1,5-2 lần trọng lượng cơ thể trong lúc địch liên tục lùng sục càn quét, nhiều chị đã được tặng danh hiệu “kiện tượng hành lang” chân đồng vai sắt, được thưởng huy hiệu Bác Hồ, Huân chương Chiến công Giải phóng… Tiểu đoàn trở thành ngọn cờ tiêu biểu của ngành hành lang vận tải Khu 5, góp phần quan trọng trong những chiến công vang dội: Tam Kỳ, Thăng Bình, Đà Nẵng, Hiệp Đức, Quế Sơn, Chu Lai, Ái Nghĩa v.v…, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Nhì. Đằng sau thành tích ấn tượng ấy là biết bao hy sinh thầm lặng, không thể nói hết bằng lời.
 |
|
Chị Phạm Thị Thao, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 232 hôm nay. |
Tiểu đoàn trưởng Phạm Thị Thao tâm tình: “Không chỉ đưa vũ khí, đạn dược, thuốc men ra chiến trường, sẵn sàng chiến đấu đánh địch bảo vệ hàng, bảo vệ đường hành lang, đơn vị còn xuống đồng bằng chuyển gạo, muối lên phục vụ thương bệnh binh, mở đường, dựng nhà, làm kho chứa hàng, sản xuất chăn nuôi tại chỗ. Trong chiến dịch Xuân Hè của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, chỉ tiêu trên giao 40kg/người/chuyến, chị em phấn đấu tăng trọng lượng lên gấp đôi, có chị đạt trên 100kg/chuyến và hơn nữa, đăng ký tăng chuyến, đẩy nhanh tiến độ giao hàng. Mỗi năm, Tiểu đoàn vận chuyển bình quân hơn 2.000 tấn hàng, với quãng đường rừng đi bộ ước hàng vạn ki-lô-mét. Với chúng tôi, cứ mỗi chuyến hàng ra tiền tuyến là kéo ngày giải phóng miền Nam gần thêm một ít. Niềm tin mãnh liệt ấy đã thôi thúc và tiếp sức cho mỗi người vượt lên gian khổ, vượt lên chính mình. Trên chiến trường Quảng Nam, đoạn từ Đại Lộc đến Quế Sơn là vùng trọng điểm đánh phá của địch, một lần tôi cùng các chị em gùi hàng xuống Quế Sơn lúc trở về bị địch phát hiện. Chúng gọi pháo bắn liên hồi từ 16 giờ chiều đến tận sáng hôm sau, một viên đạn rơi trúng hầm, 6 chị bị thương, 6 chị khác đã vĩnh viễn nằm lại trên mảnh đất này”.
Chị Lê Thị Cúc, Đại đội trưởng Đại đội 2 đến giờ vẫn nhớ như in cái thời “Bom thù, mưu dội, đường trơn/ Hàng em vẫn xẻ Trường Sơn đi về”. Giọng chị trầm xuống: “Ngày ấy điều kiện sinh hoạt thiếu thốn trăm bề. Ở cái tuổi “bẻ gẫy sừng trâu” mà bữa ăn hàng ngày chủ yếu là củ sắn, củ mài, môn thục, môn dóc, dương xỉ… Chỉ những đợt cao điểm phục vụ chiến dịch, mỗi người mới được cấp nửa lon gạo/ngày. Dù đói cơm, lạt muối, chị em vẫn động viên nhau dành số gạo trên nấu cháo cho thương binh nặng. Áo quần mỗi năm hai bộ bằng vải tám ú, đồ mặc ngoài rách chắp vá thành đồ lót trong. Mùa mưa đi gùi dành tấm ni-lon cá nhân che hàng nên cả người ướt sũng, đêm đến phải tranh thủ giặt bằng nước tro (do không đủ xà phòng) rồi hong lửa cho kịp khô. Trên đường công tác, có người lả đi vì sốt rét, đau ốm, bệnh phụ nữ dai dẳng… vẫn quyết tâm đưa hàng đến đích an toàn”.
Chị Phạm Thị Sen, Chính trị viên phó Đại đội 4 nghẹn lời: “Năm 1972, được lệnh hành quân sang Trà Ôn đề đưa hàng ra mặt trận. Đang mùa mưa, chị Trần Thị Lâu, Chính trị viên phó Đại đội 3 vừa lội đến giữa dòng suối Nước Chè thì một cơn lũ từ đầu nguồn tràn xuống, nước chảy xiết, cuốn phăng cả người cùng gùi hàng nặng suýt soát một tạ. Chị ra đi trong niềm tiếc thương vô hạn của toàn đơn vị”.
Trong những năm chống Mỹ, bất chấp gian khổ, hiểm nguy, các chị vẫn “tiếng hát át tiếng bom”. Ngày nay, mỗi dịp gặp mặt, ôn cố tri tân, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn vận tải 232 lại nhắc nhau sống xứng đáng với quá khứ vinh quang, với những đồng đồng đội đã hy sinh trên dải Trường Sơn một thời lửa đạn.
Bài, ảnh: Đỗ Thị Ngọc Diệp