QĐND - Sau 7 năm quân ngũ, năm 1972, ông Nguyễn Văn Thịnh phục viên về làng Trụ Thượng, xã Đồng Lạc (nay thuộc thị xã Chí Linh), tỉnh Hải Dương tham gia công tác, khi thì làm Phó ban Tuyên giáo xã, khi thì Đội trưởng sản xuất. Sau 20 năm, ông xin nghỉ hết mọi công việc.

Xã giao cho ông làm Trưởng điếm canh đê. Ông nhận làm với trách nhiệm cao, được cấp trên khen. Rồi cảm thấy buồn bã chân tay, năm 1993, ông xin nhận trồng tre chắn sóng bảo vệ đê. Với diện tích hơn 2 mẫu Bắc Bộ, ban đầu ông trồng được gần 250 khóm tre, sau bổ sung trồng loại tre lấy măng cũng có thu hoạch…

Ông làm một ngôi nhà nhỏ, nằm mép phía trong đê để sinh hoạt, nghỉ ngơi. Cũng nồi niêu soong chảo, bếp củi, bếp than nấu nướng. Ban đầu một mình ông ở, sau vợ ông cũng ra với ông cho đỡ buồn.

Đêm nghe tiếng vọng từ dòng sông…

Ông kể: Nhiều đêm nằm trong nhà, nghe gió thổi vi vu, cứ như tiếng gọi của con người từ xa lắc gọi về. Ông Thịnh bỗng hồi tưởng lại ngót 70 năm về trước…

Bấy giờ là thời kỳ đầu tiên thực dân Pháp âm mưu quay lại đô hộ nước ta một lần nữa. Ông Thịnh mới 9-10 tuổi, cùng cha mẹ chứng kiến một cảnh bi hùng trên dải đất này.

Một chiếc ca-nô Pháp đi từ Hải Phòng ngược lên sông Kinh Thầy, đến khúc sông Bến Bình này thì bị một Trung đội Việt Minh, dân quanh vùng gọi là “Trung đội ông Nhật”-người Phả Lại-chỉ huy phục kích đánh chặn. Một cuộc chiến đấu máu lửa đã diễn ra tại đây. Trận đánh không cân sức, kết quả 45 chiến sĩ đã hy sinh, máu đỏ dòng sông, xác trôi dạt vào bờ, ven bãi.

Giặc rút đi, dân làng Trụ Thượng rủ nhau ra mang thi thể các chiến sĩ chôn lấp tại chỗ… Khi hòa bình lập lại (năm 1954-1955), chính quyền xã tổ chức tìm hài cốt liệt sĩ đưa về nghĩa trang an táng. Đó là nghĩa trang liệt sĩ vô danh…

Bây giờ hằng ngày ngồi dưới bóng tre, ông Thịnh vẫn bồi hồi xúc động.

Hình như có tiếng vọng lên từ trong lòng ông: Các chiến sĩ đã ngã xuống đây, cần phải được đời sau ghi nhớ. Ông Thịnh nghĩ đến dựng bia…

Tấm bia do ông Thịnh tự xây đắp và khắc chữ… để tỏ lòng tưởng nhớ các liệt sĩ chưa xác định được tên trên dải đất ven sông Kinh Thầy.

Ông đi nhặt từng mẩu gạch vỡ, gạch cũ để dồn một chỗ, vào làng mua vôi, ra sông xúc cát, gánh nước… để xây bia. Tính ra hơn một năm, ông tích cóp từng đồng tiền từ bán tỉa những cây tre còng, những mớ rau, hạt đỗ trồng xen kẽ, cộng với tiền để dành… ông đã mua được 1.000 viên gạch, 15 bao xi măng… mang về cặm cụi xoa trát, đắp vẽ. Cũng uốn lượn mái đao, cũng hoa văn, màu sắc… rồi xin chữ Nho về kẻ vẽ cho trang trọng… Nghĩa là một mình ông làm hết, chẳng thuê mướn ai.

Có trời chứng giám

Ông tự nhận mình chữ nghĩa ăn đong, vào bộ đội mới được học hết lớp 4, nhưng ông lại thích tìm tòi đọc sách, đọc sử. Ông kể rành mạch rằng: Trận đánh Bạch Đằng năm 1288, Trần Hưng Đạo thắng trận, đi qua đây, lên bờ sông này, ngồi trên thảm cỏ nghỉ ngơi cùng quân lính, đời sau gọi là Bãi Lê. Chẳng rõ hư thực ra sao, nhưng ông tự hào về mảnh đất của mình lắm. Ông tự soạn văn bia, tự khắc bia. Những dòng chữ nguệch ngoạc, thậm chí sai chính tả, nhưng đọc được. Ông bảo rằng, cốt ở lòng mình là chính.

Ban đầu, ông mới nghĩ cần dựng tấm bia ghi lại sự kiện và ca ngợi trận đánh phục kích ở Bến Bình ngày 28 tháng 2 năm Bính Tuất (1946).

Đã có bia phải có chữ? Thế là ông cặm cụi soạn lời, và tự mình khắc chữ:

        Ngàn năm kim cổ vẫn đất này

        Thăng trầm thế cuộc có đổi thay

        Ghi lại dấu xưa đời sau nhớ

        Mở đầu kháng chiến đánh giặc Tây…

        Đổ bao xương máu tại đây

        Các anh ngã xuống đất này vì dân

        Ra đi giữa tuổi thanh xuân

        Vì dân vì nước hiến dâng cho đời

        Bốn lăm (45) liệt sĩ nghỉ ngơi

         Hiến dâng xương máu cho đời ngày nay…

        Ăn quả nhớ kẻ trồng cây

        Ấm no hạnh phúc nhớ người hy sinh.

Dọc hai bên tấm bia, ông khắc hai câu thơ, trình bày dạng đôi câu đối: Kinh Thầy chiến tích lừng vang vọng/ Lục Đầu giang truyền mãi ngàn thu.

Như thế cũng gọi là văn bia. Văn bia tưởng niệm những chiến công của 45 chiến sĩ đã hy sinh trên khúc sông Kinh Thầy trong những ngày đầu chiến tranh chống thực dân Pháp năm 1946, dẫu còn thô sơ, mộc mạc, nhưng thể hiện được tấm lòng của ông. Rồi ông lại phấn khởi xây tiếp bia thứ hai, rồi thứ ba, cứ như có người xui khiến vậy. Đặc biệt, có một tấm bia đa giác, mỗi mặt ông trích đoạn văn ca ngợi chiến công đánh giặc giữ nước của ông cha, hoặc chép lại ý đẹp lời hay của người xưa. Ông trích cả sự kiện Tổng Bí thư Lê Duẩn đọc Điếu văn tại Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh, đầu tháng 9-1969 tại Ba Đình, Hà Nội… Ông còn đổ tấm bê tông rộng, ở bên cạnh, đóng thêm một chõng tre khi có khách ngồi uống nước.

Có người qua đây tò mò tâm đắc, khích lệ ông. Cũng có người dè bỉu, bảo ông hâm, dở hơi, đã ít chữ lại hay chơi chữ, đã nghèo khó lại còn làm chuyện giời ơi đất hỡi, viển vông. Ông bỏ ngoài tai, cứ làm, cứ xây và cứ cặm cụi, say mê với công việc của mình. Ông đến gặp một nhà sư xin chữ, được 4 chữ “Kỳ quan hội tụ”, thì mừng lắm. Theo mẫu, ông bỏ nửa ngày nắn nót viết lên mặt trước của đài thờ công đồng và các vong linh chiến sĩ chưa xác định được tên. Có ông bạn già ở gần, thương ông đến đánh vữa, giúp ông bắc giàn giáo để ông xây. Ông Thịnh làm bát cơm, canh và cút rượu mời bạn ăn tại chỗ, bên những tấm bia, dưới lùm tre xanh mát và những cây đại đã trổ hoa thơm…

Ông lập bát hương thờ vong linh các liệt sĩ chưa xác định được tên. Khi chưa có nhà đài, ông đặt bát hương tại chân bia. Những hôm mưa gió, đất cát bắn lên bát hương không được trang trọng, nay có nhà đài tế rồi, ông rước về đặt lên cao kính cẩn. Ngày tuần rằm, mồng Một… ông mua hoa quả, thắp nhang cúng lễ rất đều đặn.

 Tôi hỏi: "Bác làm việc này, bác gái và các con có phàn nàn gì không?". Ông Thịnh cười "phe phé": "Chẳng ai nói gì cả. Tôi thích, tôi làm, cũng chả tốn kém gì. Mua quả táo, quả ổi, quả chuối, trước cúng sau ăn. Tôi vui khỏe là ai cũng mừng…".

Chuyện ông Thịnh loang ra cả xã, người tò mò đến xem, tủm tỉm bỏ đi, nhưng lại có người ra tận nơi, ngắm nghía, rồi ngồi uống nước khen ông có tâm, có đức. Ông kể: Một hôm có mấy anh ngành tàu thủy chạy trên sông Kinh Thầy, dạt tàu vào bến, lên xem cứ gật gù tấm tắc... Nghe ông kể chuyện, đọc văn bia, mấy người khách trẻ lấy làm cảm kích, rút tiền biếu ông 500.000 đồng, gọi là chút quà, cũng là để thêm với ông hương khói cho các vong linh chiến sĩ…

Giữa cuộc sống hối hả thương trường, vì bươn chải mưu sinh, nhiều khi con người lãng quên quá khứ… Ở ven sông Kinh Thầy, đoạn sông Bến Bình thuộc xã Đồng Lạc có người cựu chiến binh đã gần tuổi tám mươi, vẫn cần cù trồng tre chắn sóng và cặm cụi với những tấm bia liệt sĩ vô danh; dành dụm từng đồng bạc lẻ, mua hương hoa cúng khấn những vong linh người đã khuất, ghi văn bia để đời sau tưởng nhớ. Chuyện về ông ít người biết, nhưng đất trời chứng giám, như câu thơ ông tự soạn:

       Tâm linh có ở tự tâm,

      Một nén hương trầm trời đất chứng cho.

      Tu tâm tích đức thì nên,

      Con cháu thảo hiền, phúc lộc mai sau…

Ông Thịnh trước sau vẫn nhận mình làm thế để trong lòng khuây khỏa, cho vui. Ôi, thú vui ấy thật nhân hậu, có tâm có đức, đáng cho ta suy ngẫm!

Hải Dương, những ngày nắng nóng-2015

Bài và ảnh: KHÚC HÀ LINH