QĐND-Trong căn phòng khách của gia đình, có một tấm ảnh được treo trang trọng, ghi lại hình ảnh một Cựu chiến sĩ ở Đội Cứu quốc quân III, đang bắt tay Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, với dòng ghi chú ở cuối bức ảnh và chữ ký của Đại tướng: “Tôi và anh Môn là bạn chiến đấu từ lâu, cho đến ngày nay vẫn giữ luôn tình bạn, tình đồng chí trong sáng, thủy chung” (xem ảnh). Đó là ảnh của cố Thiếu tướng Trần Thế Môn, nguyên: Chính ủy Binh chủng Công binh, Chính ủy Mặt trận B3 Tây Nguyên với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, được coi là di ảnh vô giá của gia đình.
Nhân một năm ngày mất của cố Thiếu tướng Trần Thế Môn, xin có bài viết để tỏ lòng tưởng nhớ tới ông.
Ông sinh năm 1915, tại xã Nhân Đạo, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Tròn mười tám tuổi, ông thoát ly gia đình, một mình xuống Hải Phòng, đi làm công nhân toa xe. Năm 1936, ông bắt đầu tham gia cách mạng ở thành phố Hải Phòng. Năm 1939, ông bị thực dân Pháp bắt trong lúc đang cùng anh em công nhân đấu tranh đòi tăng lương, giảm thuế; tháng 11 năm 1940, ông được đồng chí Lương Khánh Thiện, Xứ ủy viên phụ trách miền duyên hải (Hải Phòng, Quảng Yên, Hòn Gai) chính thức tuyên bố kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Đầu tháng 1 năm 1941, ông bị thực dân Pháp bắt lần thứ hai, lần này, chúng đưa ông về giam tại Hà Nội. Trước Tòa án binh của thực dân Pháp, ông cùng các đồng chí của mình giữ vững khí tiết cách mạng, phản bác lại những lời cáo buộc của kẻ thù. Tòa Đại hình Pháp kết án ông 10 năm tù khổ sai. Tháng 7 năm 1941, thực dân Pháp đày ải tù cộng sản lên Nhà tù Sơn La. Đây là vùng ma thiêng, nước độc, kẻ thù muốn dùng sự khổ cực, đói rét, bệnh tật để giết hại anh em tù cộng sản. Đầu năm 1943, thực dân Pháp phân tán số bị giam giữ ở nhà tù Sơn La đi các nhà tù khác, hơn 100 người (trong đó có ông) bị đưa về nhà tù Chợ Chu, Thái Nguyên. Hơn một năm ở ngục tù Chợ Chu là thời gian đấu tranh quyết liệt với kẻ địch. Đầu năm 1944, chi bộ nhà tù Chợ Chu quyết định 12 đồng chí đảng viên, cán bộ cách mạng (Song Hào, Tạ Xuân Thu, Lê Trung Đỉnh, Trần Công Bình, Chu Nhữ, Lê Hiến Mai, Vũ Phong, Nhị Quý, Trần Tùng, Hoàng Bá Sơn, Nguyễn Kháng, Trần Thế Môn) vượt ngục trở về với Đảng, bổ sung lực lượng cho Phân khu Nguyễn Huệ.
 |
| Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Thiếu tướng Trần Thế Môn. Ảnh tư liệu. |
Ngày 2 tháng 10 năm 1944, sau khi vượt ngục, ông được Đảng phân công về tăng cường cho Cứu quốc quân III, hoạt động ở khu vực Chợ Chu (Định Hóa), Đại Từ (Thái Nguyên), Sơn Dương và Yên Sơn (Tuyên Quang), thuộc Phân khu Nguyễn Huệ và sau đó tham gia vào đội quân chủ lực của cách mạng.
Trong thời gian này, ông cùng đồng bào các dân tộc tham gia khởi nghĩa Thanh La. Chỉ trong một ngày đêm 10 tháng 3 năm 1945, toàn bộ chính quyền tay sai bị dẹp tan, chính quyền cách mạng được thành lập. Khởi nghĩa Thanh La và Sơn Dương được coi là cuộc khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi sớm trên toàn quốc, mở đầu cho phong trào khởi nghĩa từng phần, tiến tới khởi nghĩa trên một vùng rộng lớn từ Yên Sơn, Na Hang, Chiêm Hóa (Tuyên Quang) và Đại Từ, Phú Lương (Thái Nguyên)… hình thành một vùng giải phóng rộng lớn nối liền với Chợ Đồn, Phủ Thông (Bắc Kạn), khu vực này sau đó vinh dự được Bác Hồ, Trung ương Đảng chọn làm Khu giải phóng Việt Minh, với Châu Tự Do (Sơn Dương, Tuyên Quang) làm trung tâm và Tân Trào trở thành Thủ đô cách mạng của cả nước.
Tháng 5 năm 1945, ông nhận nhiệm vụ từ đồng chí Song Hào, nghiên cứu trận địa tại Đèo Chắn để chặn đánh quân Nhật, không cho chúng tiến vào Tân Trào, nơi Bác Hồ mới chuyển từ Cao Bằng xuống để tiện chỉ đạo phong trào cách mạng. Khi biết tin quân Nhật sẽ đánh vào Tân Trào, đồng chí Song Hào báo cáo Bác Hồ và đề nghị Bác lui vào sâu trong rừng để đề phòng quân Nhật tấn công, nhưng Bác nói: “Nếu chúng ta có cách đánh hay thì quân Nhật không thể vào đây được”. Chính từ gợi ý này của Bác, mà sau đó ông và các đồng chí chỉ huy đã bố trí lực lượng tại đèo Chắn và bẻ gãy cuộc càn của địch. Quân Nhật bị đánh bất ngờ, không dám vượt Tân Yên vào Tân Trào, mà chỉ đóng tại Kim Quan Thượng một đêm rồi sáng hôm sau rút lên Thành Các rồi về Tuyên Quang. Ông đã cùng đồng đội hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ an toàn Tân Trào, bảo vệ được Trung ương Đảng và Bác Hồ.
Trong những ngày Cách mạng Tháng 8 năm 1945, ông phụ trách một đội quân tham gia giành chính quyền ở thị xã Tuyên Quang. Từ đêm 17 đến 21 tháng 8 năm 1945, các lực lượng vũ trang đã phối hợp chặt chẽ với nhau, tiến đánh các đồn bốt, trại bảo an và đến ngày 22 tháng 8 năm 1945, thị xã Tuyên Quang hoàn toàn giải phóng.
Thời gian tiếp theo, ông được điều động đi nhiều đơn vị, làm Chỉ huy trưởng lực lượng vũ trang tỉnh Phú Thọ. Tại đây, ngày 30 tháng 8 năm 1945, ông tham gia thành lập Chi đội giải phóng quân Trần Quốc Toản (Phú Thọ) và trực tiếp làm Chi đội trưởng. Đây là một trong những trung đoàn ra đời sớm của quân đội ta. Tháng 9 năm 1945, theo Chỉ thị của Bộ tư lệnh Chiến khu I, hợp nhất Trung đoàn Âu Cơ (Yên Bái) và Chi đội Trần Quốc Toản thành Trung đoàn 81 Phú Yên (Phú Thọ-Yên Bái), ông được giao nhiệm vụ làm Trung đoàn trưởng. Đến tháng 4 năm 1946, ông nhận nhiệm vụ làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn Bắc-Bắc, cũng là đơn vị hợp nhất của Bắc Ninh và Bắc Giang. Tháng 10 năm 1946, ông được điều về Trung đoàn 115 Phú Yên làm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Trung đoàn. Trung đoàn có nhiệm vụ đánh quân địch ở phía tây tỉnh Yên Bái, ngăn không cho địch từ Sơn La đánh sang, bảo vệ sườn phía tây Việt Bắc và tạo điều kiện cho hậu phương chuẩn bị chống thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai. Trung đoàn 15 là đơn vị khởi đầu tham gia đánh thực dân Pháp ở miền Tây Tổ quốc khi chúng từ Bắc Lào xâm nhập vào.
Sau thời kỳ này, tháng 1 năm 1948, ông làm việc ở Tổng Thanh tra quân đội; tháng 2 năm 1950, ông làm Phó đoàn thanh tra của Bộ Tổng tư lệnh đi kiểm tra Nam Bộ. Trong quá trình thanh tra, ông đã làm việc với Bộ tư lệnh Nam Bộ, thường xuyên gặp và làm việc với các đồng chí Lê Duẩn, Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh), Trung tướng Nguyễn Bình… Sau đó ông về công tác ở Cục Dân quân.
Năm 1956, ông làm Chính ủy Cục Công binh. Sau đó ông trở lại Sơn La lần thứ hai với cương vị là Chính ủy Quân khu Tây Bắc, rồi vào làm Phó chính ủy Quân khu 4.
Cuộc đời ông là cuộc đời gắn bó với trận mạc, khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1965-1968), ông được giao nhiệm vụ trở lại chiến trường. Tuy đã ở cái tuổi ngoài năm mươi, không còn khỏe mạnh như trước, để vào được chiến trường, ông đã đi bộ, tập leo núi, đeo ba lô gạch, ròng rã rèn luyện đến quên ăn, quên ngủ. Cái lưng bị đau nặng từ khi ở trong tù, ông tìm đến bà con dân tộc, học hỏi bài thuốc dân gian, tìm cây thuốc, lá rừng về đắp, bệnh đau lưng tự nhiên khỏi hẳn, ông như trở thành người khác, khỏe mạnh, dẻo dai không thua kém những chàng trai trẻ.
Trước khi vào miền Nam, ông và các đồng chí Đàm Quang Trung, Hoàng Minh Thảo được các đồng chí Lê Duẩn, Trường Chinh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, Nguyễn Duy Trinh, Trần Quốc Hoàn, Lê Văn Lương, Tố Hữu gặp dặn dò. Đồng chí Lê Duẩn, thay mặt Bộ Chính trị, nói: “Lần này, Bộ Chính trị quyết tâm xuất tướng, chứng tỏ quyết tâm chiến thắng đế quốc Mỹ của chúng ta. Các đồng chí có trách nhiệm thực hiện bằng được quyết tâm đó của Đảng. Chúc các đồng chí đi đường mạnh khỏe và thắng lợi”.
Một vinh dự đặc biệt và cũng là sự động viên to lớn là trước khi lên đường, Bác Hồ đã đến tận nơi thăm hỏi và ăn cơm cùng với ông và các đồng chí trong đoàn. Cùng ngồi chung ở một chiếc bàn tròn, vừa ăn, Bác vừa hỏi thăm sức khỏe từng người, và nhắc cả đoàn phải phát huy sức mạnh của nhân dân, tôn trọng tập quán của dân, hết lòng phục vụ nhân dân, dựa vào dân… đó chính là nguồn gốc sức mạnh chiến thắng đế quốc Mỹ; còn với kẻ thù, phải luôn đề cao cảnh giác, tìm hiểu rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn của địch để đánh thắng chúng. Bác căn dặn: “Nay các chú vào miền Nam chiến đấu, dù có gian khổ đấy, nhưng đã khác trước rất nhiều. Chúng ta có Đảng lãnh đạo, có đường lối đúng đắn độc lập, tự chủ sáng tạo, có chính quyền cách mạng… vì thế các chú cần làm tốt mọi việc Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã dặn”. Lời căn dặn của Bác được ông và đồng đội khắc sâu trong tâm khảm, trở thành động lực giúp ông trong những tháng năm chiến đấu ác liệt ở chiến trường.
Tháng 8 năm 1966, ông vào chiến trường và nhận quyết định công tác ở Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị. Tháng 10 năm 1967, ông được phân công làm Chính ủy Mặt trận B3 (Tây Nguyên) thay đồng chí Chu Huy Mân về Khu 5 nhận công tác mới. Đồng chí Hoàng Minh Thảo lúc này đang là Tư lệnh Mặt trận. Gần 7 năm ở chiến trường (đến tháng 12-1973), ông đã cùng các đồng chí trong Bộ tư lệnh Mặt trận B3 lãnh đạo, chỉ huy giành thắng lợi trong các chiến dịch Đắc Tô-Tân Cảnh (1967), Đắc Tô II (1969); Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968; Chiến dịch Thu Đông 1968 và Xuân Hè 1969; Chiến dịch Đông Xuân năm 1970, Chiến dịch tiến công chiến lược năm 1972…
Khoảng thời gian từ cuối năm 1968 đến giữa năm 1970 ở chiến trường Tây Nguyên, là thời kỳ vô cùng khó khăn, đặc biệt là lương thực, vũ khí, trang bị, do đường sá vận chuyển, tiếp tế khó khăn, quân địch từng ngày, từng giờ cho máy bay đánh phá, ngăn chặn các tuyến đường, lại gặp thời tiết khắc nghiệt, để lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng, Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên nói chung và ông đã phải gồng mình lên gánh vác. Bữa ăn có lúc chỉ là củ rừng, cơm độn sắn, thiếu muối, thiếu gạo nhưng ông luôn giữ trọn lòng tin vào sự thắng lợi của cách mạng, vào sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, những năm ở chiến trường, càng gặp nhiều thử thách khốc liệt, ông lại càng nhớ tới lời Bác Hồ căn dặn trước khi lên đường, quyết tâm cùng nhân dân các dân tộc Tây Nguyên đánh thắng kẻ thù, đưa cách mạng miền Nam đến ngày toàn thắng.
Đầu năm 1974, ông trở lại làm Chính ủy Binh chủng Công binh lần thứ hai. Ông cùng các đồng chí trong Đảng ủy, Bộ tư lệnh Binh chủng giải quyết nhiều vấn đề quan trọng như tổ chức lực lượng, trang bị và đi xuống các đơn vị động viên bộ đội tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giành thắng lợi trọn vẹn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Năm 1977, ông được điều về Tòa án quân sự Trung ương. Trong một lần nói chuyện, ông tâm sự một cách hóm hỉnh: Chính nơi này khi ông hoạt động cách mạng bị bắt, bị thực dân Pháp kết án tù 10 năm khổ sai, sau 40 năm, cũng tại đây, ông trở lại với cương vị là Chánh án Tòa án quân sự Trung ương.
Năm 1979, hoàn thành nhiệm vụ của người chiến sĩ cách mạng, ông thanh thản trở về cuộc sống đời thường, hăng hái tham gia công tác đường phố và chăm lo hạnh phúc gia đình, tự hào với sự trưởng thành của con cháu, thế hệ nối tiếp ông chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thiếu tướng Nguyễn Hữu Yên nguyên Tư lệnh Binh chủng Công binh