QĐND - Vào một ngày cuối tháng 4, tôi nhận được cuộc điện thoại của Tái (con rể Đại tá Nguyễn Văn Đức, nguyên Phó tổng biên tập Tạp chí Quốc phòng toàn dân), thông báo: “Bố em mất rồi anh ạ”. Mặc dù đã được dự báo trước, nhưng tôi vẫn không khỏi bất ngờ. Thoáng chút lặng người, tôi hỏi: “Anh Đức mất khi nào?", Tái nói: “Mới cách đây 1 phút”. “Ừ, anh sẽ báo anh Hồi và các anh trong Ban Biên tập Tạp chí”. Tôi chỉ nói được vậy, rồi đặt máy. Trong tôi, những ký ức về anh ùa về, xao động.
Anh Đức sinh năm 1930 tại thị trấn Tứ Kỳ huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Anh giác ngộ và tham gia hoạt động cách mạng ở địa phương từ rất sớm (tháng 4-1945), với thời gian công tác hơn nửa thế kỷ; trong đó, có gần 40 năm làm nghề báo tại Tạp chí Quốc phòng toàn dân. Cùng với các bác: Lê Hai, Phạm Quang Cận, Lê Bằng, Ngô Từ Vân, Phạm Như Lăng, Lê Thái… anh thuộc lớp cán bộ đầu tiên khi Tạp chí Quân đội nhân dân tái thành lập vào năm 1957. Anh được đào tạo tại Trung Quốc, gần 20 năm giữ cương vị Phó tổng biên tập và nghỉ hưu từ Tạp chí. Tạp chí như ngôi nhà thứ hai của anh, nên anh luôn trăn trở, “nặng lòng” với Tạp chí. Tôi cảm nhận được điều này qua những lần tâm sự, trao đổi với anh, kể cả khi anh đã nghỉ công tác.
Với tôi, đúng hơn là thế hệ chúng tôi (gồm 4 cán bộ trẻ - Liêng, Tường, Lâm, Hùng - về Tạp chí năm 1982 từ Trường Sĩ quan Lục quân 1), anh không chỉ là nhà báo lão thành, một “cây bút”, mà thực sự là một người thầy. Anh và một số anh trong Ban Biên tập, Trưởng bộ phận của Tạp chí ngày ấy đã trực tiếp dạy dỗ, dìu dắt chúng tôi từ những bước “chập chững” của ngày đầu cuộc đời làm báo. Anh không những cho chúng tôi những gì mình có qua mấy mươi năm trong nghề, từ kinh nghiệm, kiến thức, vốn sống… nhưng quan trọng hơn cả là anh đã thổi vào mỗi người chúng tôi lòng yêu nghề da diết, tâm huyết với nghề, dù đó là nghề “Sướng ít, khổ nhiều”, không phải ai cũng thích, như Nhà thơ Nguyễn Bính đã viết: “Ai bảo mắc vào duyên bút mực/ suốt đời mang lấy số long đong”. Có lẽ vì thế mà chúng tôi trụ vững được với nghề đến hôm nay. Anh có kiến thức rộng, từng trải, nhiều kinh nghiệm trong nghề. Vào cuối những năm 70 của thế kỷ trước, để bồi dưỡng kiến thức quân sự, quốc phòng cho cán bộ, nhiều địa phương đã mời các đồng chí trong Ban Biên tập Tạp chí, trong đó có anh về phổ biến, quán triệt quan điểm, đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng. Trong cuộc đời làm báo, anh đã viết, chắp bút có tới cả trăm bài, với đủ các chuyên mục của Tạp chí và số bài mà anh trực tiếp biên tập, sửa chữa cho cấp dưới còn nhiều hơn thế. Bài viết của anh có đặc tính rất riêng, không “lên gân, lên cốt”, không “quan trọng hóa vấn đề”, mà thường nhẹ nhàng, thanh thoát, nhưng chặt chẽ, sắc xảo. Văn phong của anh không lẫn với bất cứ ai. Nếu ai đó đã quen với văn phong ấy thì đọc là biết ngay bài của anh. Những bài của biên tập viên mà anh sửa bao giờ cũng được “nâng tầm” và “sáng” hẳn lên. Anh thường nói với anh em chúng tôi: “Nghề báo, nhất là Tạp chí là nghề “mài chữ”, khổ lắm! Có khi mài mãi mà chẳng được chữ nào, muốn viết ra chữ nhanh, chữ tốt thì phải “lao tâm, khổ tứ”. Anh giải thích thêm: Phải khổ luyện, phải chịu đọc, chịu nghiên cứu, trước hết là nghiên cứu Tạp chí Quốc phòng toàn dân, rồi từ đó thấm dần cách viết mang tính “bản sắc” của Tạp chí. Anh còn nói, viết Tạp chí không chỉ cần kiến thức chuyên ngành sâu, trình độ nghiệp vụ báo chí vững, mà còn phải hiểu đời, có kiến thức cuộc sống… Trải nghiệm mấy chục năm trong nghề, nghĩ lại những điều anh nói càng thấy ý nghĩa biết bao, đúng biết bao.
Với cấp dưới, anh là một thủ trưởng gương mẫu, trách nhiệm, tận tụy. Ở cương vị Phó tổng biên tập, Bí thư Đảng ủy, phụ trách nội bộ của cơ quan nhiều năm, anh luôn hoàn thành tốt chức trách được giao. Anh không chỉ giỏi về chỉ đạo chuyên môn, mà còn giỏi trong công tác tổ chức các mặt hoạt động của cơ quan, đã có đóng góp quan trọng vào việc giữ vững và nâng cao uy tín, vị thế Tạp chí Quốc phòng toàn dân - cơ quan lý luận quân sự, chính trị của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng. Nói tới sự tận tụy, trách nhiệm của anh với tư cách là thủ trưởng, tôi nhớ lại một kỷ niệm nhỏ nhưng khá sâu sắc; đó là trong cuộc giao nhận ban giữa trực ban cũ và mới do anh chủ trì, anh lấy khăn tay lau lên mặt bàn của phòng giao ban, thấy bẩn, anh nhẹ nhàng nhắc trực ban cũ và Trưởng ban Hành chính về việc chưa thực hiện tốt trách nhiệm kiểm tra vệ sinh, nội vụ. Còn nhớ, hồi cuối năm 2011, biết tin anh lâm bệnh nặng, cả Ban Biên tập Tạp chí đến thăm, anh nói: “Trước đây ở Tạp chí cứ mải công việc, đút chân dưới gầm bàn, chẳng nghĩ đến thời gian, đến khi trên cho nghỉ, mới giật mình là đã gần 70 tuổi”. Với anh em trong cơ quan, anh hết sức gần gũi, thân mật, tận tình giúp đỡ cả trong công tác, cuộc sống. Tôi còn nhớ những năm đó ở Tạp chí, có cán bộ muốn thuyên chuyển công tác (vì những lý do khác nhau) và chiến sĩ ra quân muốn xin việc làm, anh đã thay mặt Ban Biên tập trực tiếp làm việc, đề nghị các đơn vị, địa phương tiếp nhận và đã có không ít trường hợp thành công. Sau khi nghỉ hưu, anh còn tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội, giúp cấp ủy, chính quyền địa phương một số việc, được địa phương và bà con xóm giềng cảm phục, quý trọng.
Vậy là anh đã đi xa. Tôi xa anh cả thảy hai lần, lần nào cũng bùi ngùi, bịn rịn. Lần đầu là khi anh nghỉ công tác, nhưng thi thoảng còn gặp, còn hàn huyên, tâm sự. Lần xa này là lần thứ hai, cũng là lần cuối, xa anh mãi... Vẫn biết “Sinh, lão, bệnh, tử” là lẽ tự nhiên ở đời, không ai tránh khỏi quy luật ấy. Nhưng tôi vẫn thấy khó chấp nhận là sao? Phải chăng vì sâu thẳm trong ký ức luôn có một người thầy, người Anh đúng nghĩa?
Nguyễn Mạnh Hùng