Kỳ 3: Đây là sự "đầu hàng" của Quân giải phóng!

Ngày 1 tháng 7 năm 1968

QĐND - Trời vừa sáng, sau khi đưa thương binh ra, Hợi (Trung đội 3) quay vào mang lệnh của tiểu đoàn cho đại đội rút ra nhưng chỉ có bộ đội là rút ra kịp còn ban chỉ huy đại đội bị kẹt lại ở chân 689 (Sở chỉ huy đại đội có tôi, đại đội trưởng, hai đồng chí thông tin 2 oát và đồng chí Điệt, trinh sát). Ngụy trang lại công sự lần cuối, tôi và đại đội trưởng ngồi thụt xuống công sự. Hố đào vội nên quá chật, duỗi chân ra không được, pháo của địch lại bắn liên tục quanh công sự. Cối cá nhân và đại liên của địch trên 689 bắn xuống như vãi đạn.

Ngẩng đầu lên tôi thấy bọn Mỹ ra ngoài rất đông. Chúng chỉ trỏ xuống phía trận địa của tôi. Cơm lại không có, đói quá. Xin hai đồng chí thông tin được ít gạo rang, tôi và đại đội trưởng ngồi thụp xuống ăn. Chỉ mong sao trời mưa cho trận địa khỏi bị lộ. Lúc gần 11 giờ trưa, chiếc L19 bay quần đảo có đến gần 30 phút trên đầu, rồi bất ngờ chúc lao xuống phóng một quả pháo khói. Bỗng tiểu liên cực nhanh của Mỹ nổ ran quanh công sự. Tình thế gay go rồi. Năm anh em chúng tôi đã lọt vào vòng vây của Mỹ rồi hay sao?

Các cựu chiến binh Tiểu đoàn K3-Tam Đảo tưởng niệm đồng đội đã ngã xuống ở Thành cổ Quảng Trị. Ảnh: Hồng Vân.

Đại đội trưởng nói nhỏ với tôi phải bình tĩnh, đợi nó đến thật gần hãy nổ súng. Nói dứt lời, đại đội trưởng bật khỏi công sự, định trườn lại công sự phía sau, nhưng không kịp. Một toán Mỹ đã phát hiện được và lập tức nổ súng. Đại đội trưởng bị thương vào mặt, máu chảy đầm đìa. Ứa nước mắt vì căm thù, tôi vừa quay lại thì ngay công sự đã có hai thằng Mỹ lù lù rồi (chỉ cách công sự trên dưới 3m) tôi kịp xiết cò hai loạt ngắn. Hai tên Mỹ rống lên như trâu bị chọc tiết, ngã đổ vật trước công sự của tôi. Lúc này nghe thấy tiếng súng AR15 mới thấy lực lượng địch đông hơn chúng tôi gấp bội, mà lúc đó đại đội trưởng lại bị thương, cùng với cái hầm máy 2 oát. Suy nghĩ một lát tôi bật dậy khỏi công sự, trườn về phía Đại đội trưởng Sơn thì anh không còn ở đó. Bọn Mỹ đã trông thấy tôi, chúng bắn như đổ đạn về phía công sự. Tôi ném liền hai quả lựu đạn về phía địch rồi bật dậy khỏi công sự lăn tròn xuống chân cao điểm trước sự bất ngờ và ngỡ ngàng của địch.

Lăn xuống chân đồi, ngẩng đầu lên thì tôi đã ở ngay dưới chân cao điểm của địch, bọn Mỹ trông thấy tôi rất rõ. Chúng chỉ trỏ và bắn cối 60 chặn đầu. Bọn Mỹ phía trên thì vừa bắn vừa tiến lại phía tôi. Chúng muốn bắt sống, tôi nghe loáng thoáng tiếng gọi đầu hàng.

Tôi nhảy xuống một hố pháo, thì bọn Mỹ cũng vừa kịp tới. Chúng bắn quanh miệng hố pháo và gọi hàng. Này, đây là sự "đầu hàng" của Quân giải phóng! Tôi tung ngay quả lựu đạn đang cầm trên tay về phía địch. Một tiếng nổ vang, tôi lao ngay khỏi hố pháo, lăn xuống khe suối.

Tôi bị ngay một quả cối 61 nổ ngay bên người. Máu mồm, máu mũi đổ hộc ra, mặt bên trái rát như phải bỏng. Bọn Mỹ nhát, không ra bắt tôi mà quay lại căn cứ và bắt đầu là những trận mưa đạn cối, đạn pháo bắn xuống khe suối. Vừa chui vào được một khe đá săm sắp nước thì một quả pháo của địch nổ ngay phía trên, tôi bị ngất đi, một lúc sau mới tỉnh. Tai lúc này ù đặc không nghe thấy tiếng gì nữa. Tôi vội lấy mấy hòn đá kê ngoài mép hang, kê nòng tiểu liên lên sẵn sàng bắn bất kỳ tên nào mò xuống. Đến lúc này tôi mới thấy đói và rét. Có một chú rùa đá cùng ở trong khe với tôi lúc đó. Thật là một kỷ niệm không quên. Nước thì săm sắp dưới bụng. Một cơn sốt rét bất thường ập đến. Người run cầm cập. Tự nhủ không thể chết như thế này được. Đến sẩm tối phản lực lại đến đánh cho 3 loạt bom nữa. Người tôi cứ nhồi lên, ép xuống như giã gạo. Rồi tối cũng ập đến.

Tôi lết ra cửa hang, xem quy luật bắn pháo của địch và lấy phương hướng. Có lẽ dãy núi trước mặt là 622 và pháo của địch cũng bắn thưa thớt hơn, mỗi lần một quả thôi. Tôi quyết định có chết cũng phải tìm về đơn vị. Tôi dùng hết sức mình lết, bò lên sườn đồi. Khoảng gần một giờ sau thì gặp được con đường mòn. Tôi mừng quá, cố đứng dậy chạy được vài bước lại ngã, ngã rồi lại chạy. Gần đến mỏm C 622 thì gặp Khoát, liên lạc, anh Quyển và Mậu đưa cơm lên chốt. Anh em ôm lấy nhau mà khóc. Vừa lúc này thì gặp hai đồng chí thông tin 2 oát. Thế là máy của mình vẫn còn và được biết đồng chí đại đội trưởng đã không bị rơi vào tay giặc (hai đồng chí 2 oát có tên là Trung và Hiền). Rồi sau đó hai đồng chí thông tin dìu tôi về. Về đến 519 thì gặp Tiểu đội 8 của đồng chí Nguyễn Hữu Quyền. Nghe đồng chí Quyền nói mới biết, tiểu đội đồng chí đã đánh nhau để bảo vệ cửa mở (do Trung đội 1 mở từ đêm 28 rạng ngày 29-6-1968). Từ 7 giờ sáng đến tận 3 giờ chiều đã tiêu diệt được nhiều địch, thu 1 súng trường tự động, 1 máy ảnh và nhiều chiến lợi phẩm khác. Về đến chỗ Đại đội phó Cát, báo cáo xong tình hình chiến đấu, nghỉ lại, băng bó lại vết thương ở đầu, ở chân, ở lưng. Cuối cùng hai đồng chí thông tin về đại đội. Chính trị Hòa và Chính trị viên phó Hưng đã ra cả 622.

Ngày 13 tháng 7 năm 1968

Khe Sanh đã hoàn toàn giải phóng được mấy ngày rồi. 12 giờ trưa chúng tôi hành quân quay ra. Đi sau với anh Hưng. Anh em, đồng đội qua mấy ngày chiến đấu ác liệt, người nào trông cũng mệt mỏi. Mãi gần tối mới đến nơi. Chỗ nghỉ là chỗ nghỉ cũ của đơn vị ở chân cao điểm 803. Trông cảnh vật xung quanh, lòng buồn tê tái, bùi ngùi, xao xuyến nghĩ đến bao nhiêu anh em, đồng đội đã hy sinh. Có những giá ba lô, những đôi cọc phụ vẫn còn ở nguyên chỗ cũ, nhưng những người lính, chủ của nó mấy hôm trước, đã hy sinh cả rồi. Nghĩ mà thương anh em, căm thù bọn Mỹ. Cái giá ba lô của Đại đội trưởng Thưởng vẫn còn nguyên đây, nhưng anh đã bị ốm đi viện rồi, chắc là khó gặp lại.

Ngày 4 tháng 8 năm 1968

Kể cũng có lỗi với cuộc đời chinh chiến, đã khá nhiều ngày rồi tôi bận không viết nhật ký. Hôm nay, lại tiếp tục vậy bởi những ngày này đơn vị có nhiều sự việc xảy ra lắm. Tôi trong những ngày qua vẫn làm công việc một anh nhân chính (văn thư) thay vị trí của đồng chí Dương Quế Phương đã hy sinh và làm luôn việc của anh liên lạc. Việc cũng khá nhiều nhưng nếu tôi cố gắng thêm một tí là làm được hết. Sáng nay, Xưởng phim Quân đội vào tận chiến trường, yêu cầu đại đội đi diễn lại những trận đánh ở 689 trong những ngày cuối tháng 6 đầu tháng 7-1968 để làm phim tư liệu.

Tôi vinh dự luôn luôn được đi đầu cùng Tổ dũng sĩ diệt Mỹ để họ quay (sau trận đánh ngày 1-7-1968, tôi được công nhận là Dũng sĩ diệt Mỹ cấp 3). Tổ dũng sĩ diệt Mỹ của tiểu đoàn gồm: Anh Bình, Đại đội phó; anh Quyền, Trung đội trưởng; Thường và tôi ở tổ liên lạc của Đại đội 10 và 2 đồng chí của Đại đội 11. Đoạn quay thác nước ở cao điểm 707, tôi cùng Tổ dũng sĩ đi ngược lên thác để họ quay hình ảnh hành quân. Còn lúc quay hình ảnh Quân giải phóng công kênh nhau vượt qua vách đá kề thác nước, tôi ngồi dưới để công kênh đồng đội.

Đoạn quay tổ dũng sĩ nghỉ ở bờ suối, đoàn làm phim lại yêu cầu tôi nằm ngửa, gối đầu lên ba lô, ôm súng trên ngực hát để họ quay cận cảnh và chụp cả ảnh nữa. Khi quay về qua hố bom, tôi cùng Thường, anh Thanh (Đại đội 11) và Quyền diễn lại cảnh chiến đấu của tôi ở hố bom trong trận đánh ngày 1-7-1968 (có bắn đạn thật và ném lựu đạn thật, báo của mặt trận viết bài lấy luôn cái ý của tôi là: Đây là sự "đầu hàng" của Quân giải phóng! Sau đó đoàn làm phim lại yêu cầu một mình tôi diễn lại trận đánh đó một lần nữa để họ quay. Sau đó họ quay thêm vài đoạn nữa rồi về nghỉ. Ở ngoài Bắc, Hoa Huyền mà được xem phim tài liệu này, thấy được hình ảnh của tôi chắc là bị bất ngờ và hồi hộp đến ngừng thở mất.

Ngày 5 tháng 8 năm 1968

Đêm qua mưa to, sáng dậy trời vẫn tiếp tục mưa, gần trưa Xưởng phim Quân đội mới quay tiếp được. Tôi hôm nay vẫn tiếp tục diễn lại hình ảnh của Quân giải phóng trước và sau khi đánh trận như: Ngồi trên võng đọc thư nhà rồi viết thư gửi hậu phương thân yêu và hình ảnh hành quân. Sau đó, họ yêu cầu tôi trang bị gọn gàng đeo ba lô, khoác súng AK để họ quay và chụp ảnh, giá tôi mà có tấm ảnh này! (Điều này sau đó trở thành hiện thực, Đoàn làm phim đã gửi tấm ảnh này về nhà cho bố của Nguyễn Văn Hợi. Hiện ông Hợi vẫn còn giữ nó và coi như báu vật - PV).

Đồng chí quay phim và chụp ảnh tôi tên là Nguyễn Duy Hinh, Phóng viên quay phim Xưởng phim Quân đội nhân dân Việt Nam. Địa chỉ anh cho tôi số nhà 200A phố Huế-Hà Nội. (Hiện nay, Nguyễn Duy Hinh là GS. TS Trưởng khoa Sau đại học Trường Đại học Sân khấu-Điện ảnh Việt Nam - PV).

---------------------

Kỳ 1: Đường ra trận

Kỳ 2: Trận đầu, chiến đấu hụt

Kỳ 4: Vào Đảng ở Động Tiên

Hồng Hải (sưu tầm và giới thiệu)