(Tiếp theo và hết)
Nghe tôi hỏi vậy, ông lão liền xua tay:
- Không, không có lần thứ ba như anh nói đâu. Chuyện là như thế này: Sau lần thứ hai bố con gặp nhau để lại cho tôi nỗi khổ đau khôn tả, tôi sợ từng tiếng xe ô tô chạy qua ngõ nhà mình và sợ luôn cả những anh bộ đội mặc quần áo sĩ quan đi vào làng. Tôi quyết định mua một bộ cánh cổng bằng sắt, để mỗi lần ra vào cài then đóng khóa cẩn thận, bất cứ ai vào cũng phải gọi mới mở cổng. Hễ đi vắng thì thôi, còn ở nhà là tôi nơm nớp lo sợ Trần Ngọc lại bất ngờ tới. Nhưng ngày tháng vẫn bình yên trôi đi, chẳng có vấn đề gì xảy ra cả. Khiến tôi đoán là nó đã tự ái khi bị tôi đuổi khỏi nhà, nên sẽ không dám tới nữa.
Phải 5 tháng sau, vào một buổi trưa tháng 11-1990, tiết trời Đông ấm nắng hanh. Tôi có việc vừa đi xa về, nghe thấy trong nhà bà vợ tôi đang tiếp một ai đó, chắc là thân quen, nên nói cười rôm rả. Thoáng nhìn thấy bóng tôi vào, họ liền im lặng, như có điều gì bí mật dành cho tôi, khiến tôi xông ngay vào nhà. Trời ơi, một cảnh tượng hết sức bất ngờ xảy ra trước mắt tôi. Bà vợ tôi đang ôm vai bà Nhi, đôi mắt nhìn tôi thật khác thường, khó tả, như trách móc hờn dỗi, như yêu thương trìu mến bao dung. Tôi chợt nhớ đến lời nói của Trần Ngọc trong lần thứ hai đến tìm gặp tôi, hẳn là nó đã bố trí sắp xếp cho ba chúng tôi có cuộc gặp lịch sử này, đẩy tôi lâm vào cảnh dở cười, dở khóc và vén hết lên màn bí mật về tình yêu trong quá khứ của mình.
Về sau này tôi hỏi lại, nó bảo:
- Chỉ còn cách lấy tình yêu trong quá khứ của bố mẹ, để giải quyết tốt vấn đề tình cảm trong quá khứ của bố mẹ để lại.
Thấy tôi vẫn đứng như trời trồng, đã 65 tuổi đầu mà miệng ấp a ấp úng như đang ngậm hột thị, mặt mũi lại đỏ bừng, bà vợ tôi tỏ ra thương hại, đon đả phá tan sự im lặng: Thôi nào ông ơi! Chị em chúng tôi đã từng và đang là vợ của ông, được ông hết lòng yêu thương, chứ có phải là “sư tử” đâu mà ông sợ. Mọi việc trong quá khứ của ông quan hệ với bà Nhi, tôi đã biết hết cả rồi. Chúng ta đều đã già cả, còn gì nữa đâu để mà ghen tuông. Con trai của ông thì ông nhận, ông không dám nhận thì tôi sẽ nhận nó làm con. Tất cả chỉ có tốt đẹp hơn lên mà thôi. May mà bà Nhi đã tìm được tới đây, làm sáng tỏ sự việc, không thì ông còn giấu giếm đến bao giờ? Ông có còn là đàn ông nữa không đấy?
Nghe hai bà nói, tôi như mở cờ trong bụng, trước niềm vui hạnh phúc quá lớn do hai bà mang lại cho tôi. Tôi thật không ngờ, trái tim những người phụ nữ mà tôi yêu thương, lại rộng lớn, nhân hậu và vị tha đến thế. Cả cuộc đời họ chỉ biết phấn đấu hy sinh tất cả vì tình yêu, vì chồng con của mình. Tôi cố gắng mường tượng ra những nỗi khó khăn vất vả của đứa con trai tôi, sinh ra trong hoàn cảnh một gia đình đặc biệt, sớm bị tổn thương sâu sắc về tình cảm. Ấy thế mà nhờ Đảng, Quân đội ta đã giáo dục, rèn luyện, phấn đấu nên người có ích cho nhân dân và Tổ quốc, đặc biệt lại có tấm lòng hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương mọi người. |
Tôi chỉ biết ngồi im trên ghế, cảm thấy đau điếng người, như vừa cắt xong được một khối ung nhọt, hành hạ tôi lâu nay. Lòng bỗng thấy nhẹ lâng lâng như hất ra được hòn đá đè nặng trên ngực, đầu óc tỉnh táo như vừa thoát khỏi vòng kim cô. Tôi chưa biết nói gì, thì bà Nhi vội vã đỡ lời, giọng chì chiết:
- Thôi bà ơi! Đàn ông ai mà chẳng vậy, chỉ suốt đời mải mê với công danh sự nghiệp, địa vị chức quyền và mơ tưởng viển vông với những chuyện đâu đâu, đến nỗi quên luôn cả chính mình, còn nói chi đến vợ con. Ôi dào! Chỉ đến lúc về già, mới tỉnh ra hiểu hết giá trị đích thực của cuộc đời, trút bỏ vinh hoa phù phiếm, vội vàng bù đắp cho vợ con. Nhưng sức đã cùng, lực cũng đã kiệt, phỏng có ích gì, chỉ còn biết ân hận một đời. Chả thế mà các cụ ta có câu: “Gái thương chồng đương đông buổi chợ, Trai thương vợ nắng quái chiều hôm”. Ôi, cái thứ nắng quái chưa bừng lên đã tắt ngấm…
Bà Nhi quay lại nhìn thẳng vào tôi nói tiếp:
- Sau cái ngày ông bỏ tôi đi, tôi có thai, cái thai mỗi ngày một lớn. Tôi bị gia đình, bạn bè và hàng xóm khinh rẻ, hắt hủi, gán cho cái tên là “Nhi Thị Mầu”. Tôi đau khổ vô cùng, một hôm ra bờ sông định tự tử, may mà có anh tá điền đang tắm gần đó nhìn thấy vội kéo tôi lên bờ. Anh ta tuy xấu xí, lớn tuổi nhưng lực lưỡng, thật thà tốt bụng, nên tôi đành ở lại chung sống với anh ta. Chúng tôi nên vợ nên chồng. Rồi thằng con ông sinh ra được mang họ Trần của ông ấy, chúng tôi có thêm mấy đứa con nữa, đủ trai đủ gái. Riêng thằng Trần Ngọc càng lớn nó càng giống ông như đúc. Đến năm nó 10 tuổi, biết được sự thật về thân phận của mình, nên nó quyết định bỏ nhà ra đi tìm ông. Vợ chồng tôi hốt hoảng đi tìm nó, khi ra đến bến đò Quan, tôi nghe bà cụ bán hàng nước nói lại, hôm qua nó đến đây bị đói lả, may mà bà cụ còn nồi cơm nguội và niêu cá kho đem cho nó ăn. Khi nó tỉnh dậy tiếp tục xuống đò sang sông đi tìm bố ở Hà Nội.
Mãi sau này tôi mới biết là nó lạc đường lên tận Bắc Giang. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, nó về quê nghỉ phép đem theo cô vợ là bác sĩ quân y người miền Nam. Nghe nói cô bác sĩ đó có công cứu sống nó trong nhiều lần phẫu thuật vết thương của nó. Nó cũng giống như ông ở điểm này. Nghỉ phép được ít ngày nó lại lang thang đi khắp Hà Nội, lần tìm tung tích của ông nhưng không thấy. Nó thường tâm sự với tôi: Điều sợ nhất là phải mang tiếng một đứa con hoang, nếu tìm thấy ông còn sống, nó sẽ xin được một ngày để phụng dưỡng báo hiếu, nếu ông đã chết, nó xin được di ảnh để phụng thờ. Sau lần tôi gặp ông ở đám cưới ấy, tôi đã rất mừng, liền dò hỏi địa chỉ của ông qua đứa cháu dâu, rồi tôi điện thoại báo tin ngay cho nó. Nó đã cất công xin nghỉ phép ra Bắc để tìm ông, nhưng cả hai lần nó đến ông đều không nhận con. Nó dặn tôi, cứ để ông có thời gian suy nghĩ, khi nào ông nghĩ lại, thì báo ngay cho nó biết để nó ra nhà làm lễ trình gia tiên nhận bố và nhận họ Nguyễn của ông. Nó tính sau này về già, sẽ lấy tên là Nguyễn Trần Ngọc.
Bà vợ tôi sung sướng cướp lời:
- Thế là từ nay họ Nguyễn nhà ông đã có người kế trưởng xứng đáng rồi phải không bà? Đúng là phúc lớn tày đình cho cả họ nhà ông đấy!
Nghe hai bà nói, tôi như mở cờ trong bụng, trước niềm vui hạnh phúc quá lớn do hai bà mang lại cho tôi. Tôi thật không ngờ, trái tim những người phụ nữ mà tôi yêu thương, lại rộng lớn, nhân hậu và vị tha đến thế. Cả cuộc đời họ chỉ biết phấn đấu hy sinh tất cả vì tình yêu, vì chồng con của mình. Tôi cố gắng mường tượng ra những nỗi khó khăn vất vả của đứa con trai tôi, sinh ra trong hoàn cảnh một gia đình đặc biệt, sớm bị tổn thương sâu sắc về tình cảm. Ấy thế mà nhờ Đảng, Quân đội ta đã giáo dục, rèn luyện, phấn đấu nên người có ích cho nhân dân và Tổ quốc, đặc biệt lại có tấm lòng hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương mọi người.
Sau đó, tôi liền thức suốt 3 đêm, ngồi viết lá thư dài cho Trần Ngọc, để kể lể và thanh minh, rồi nhận tội lỗi với con. Nhưng cuối cùng lá thư ấy tôi vẫn không gửi, để nguyên trên bàn thờ Phật như một lời sám hối muộn mằn. Tôi chỉ gọi điện thoại cho nó mà thôi. Tết năm 1991, Trần Ngọc ra Bắc về thăm tôi, nó vẫn chững chạc oai phong trong bộ quân phục và trên ve áo gắn đôi quân hàm đại tá. Câu đầu tiên nó hỏi tôi:
- Vì sao đến bây giờ bố mới nhận con?
Tôi nhìn thẳng vào mặt nó, nói lời tâm huyết nhất của mình:
- Bố muốn nhận con ngay từ lần đầu tiên con đến, nhưng nếu con là người nghèo khó, thì bố nhận con mà không thấy hổ thẹn với lương tâm. Còn con như thế này, bố nhận sợ mang tiếng là “thấy người sang bắt quàng làm họ”. Hơn nữa, người duy nhất có quyền cho phép bố nhận con chính là mẹ Nhi của con, chứ không phải con hoặc một ai khác!
Hôm sau Trần Ngọc xin phép vợ chồng tôi được đầu tư xây dựng, nâng cấp sửa chữa lại ngôi nhà ở, mua sắm mới nội thất trong nhà, rồi mới làm lễ trình gia tiên, trình họ hàng. Mời tất cả anh em con cháu trong họ tới dự. Xong việc, tôi bảo nó xây thêm cho bố một cái am nhỏ này, để thờ Phật tại gia. Ngày ngày tôi ngồi thiền, cầu kinh niệm Phật sám hối với tổ tiên, với con và với mọi người, để cho lương tâm mình được thanh thản trước khi ra đi về cõi vĩnh hằng. Tôi thường xuyên ăn ngủ và sinh hoạt tại đây, rất ít khi lên ngôi nhà lớn vì mặc cảm.
Tôi nhìn chiếc giường ông đang ngồi, chiếu đã sờn rách, chiếc gối gỗ bóng nhẫy mồ hôi và cả chiếc tủ đựng quần áo cũng đã cũ. Tôi đoán là những đồ dùng này rất thân thuộc, nguyện gắn bó đến phút cuối đời với ông, để giúp ông thực hiện những ngày ép xác, chối bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý hiện nay, mà ông tự cho mình không đáng được hưởng. Ông lão chợt nghĩ ra điều gì vui vui, nên trong ánh mắt già nua bừng lên tia sáng và hỏi:
- Còn một việc này nữa: sau cái Tết ấy, tôi bảo nó đưa tôi về Hưng Yên, để tạ tội với bà Nhi, với họ ngoại của nó và làm lễ ngoài mộ ông bố dượng, tôi thắp hương, cắt máu ngón tay chảy hòa chén rượu, đổ xuống ngôi mộ một nửa, tôi uống phần còn lại và tôi thề xin làm em kết nghĩa của ông, nguyện thay ông làm nghĩa vụ với tổ tiên, gia đình vợ con ông để lại.
Như một lẽ đương nhiên vợ tôi cũng xin nhận bà Nhi làm chị gái cả, những đứa con của hai gia đình nay là một nhà, chúng quan hệ mật thiết với nhau như là ruột thịt. Tôi cũng xin nói thêm: ngày tôi chia cắm đất thổ cư cho các con gái, con rể, chúng ganh tị nhau chỗ tốt chỗ xấu, băng một băng hai, đến nỗi tôi phải cho chúng gắp phiếu may rủi, thế mà từ ngày trong nhà có thêm anh trai trưởng, các cô em gái như ngoan hơn, luôn vui vẻ phấn khởi và đoàn kết nhất trí, chuyện gì cũng đem hỏi ý kiến anh trai. Rồi chúng bảo nhau trả lại phần đất được chia cho bố mẹ, để anh trai xây dựng nhà thờ họ, giúp việc thờ phụng tổ tiên và cha mẹ sau này. Tuy cuộc sống còn có nhiều khó khăn, nhưng anh chị em chúng nó đã cùng nhau tìm cách hỗ trợ, giúp đỡ phát triển kinh tế, để cùng có cuộc sống khá giả hạnh phúc. Đó là điều các bậc cha mẹ già như tôi đều mong ước. Đến lúc này vợ chồng tôi thực sự yên tâm, để ra đi về với tổ tiên bất cứ lúc nào. Nhưng tôi vẫn băn khoăn mãi, chưa kể hết với Trần Ngọc những điều tôi đã tâm sự với anh, kể cả lá thư tôi viết, nó cũng chưa bao giờ đọc. Mỗi lần thấy tôi định nói đến chuyện đó, nó lại gạt đi và an ủi tôi:
- Ôi dào, chuyện quá khứ của bố mẹ, con biết hết cả rồi. Cuộc đời các cụ phải chịu nhiều khổ đau, mất mát và hy sinh, để cho các con cháu hôm nay được hưởng cuộc sống sung sướng và hạnh phúc, bản thân con cũng mới trưởng thành được thế này. “Nhân quả” mà bố! Đấy nó bảo tôi thế, anh thấy có đúng với nhân quả không?
Bỗng ông lão sung sướng bật cười ha hả, những giọt nước mắt vui chảy dài trên đôi gò má, toàn thân rung lên trong chiếc áo tu hành khổ hạnh, khiến tôi cũng vui lây, cười nghiêng ngả theo ông, phá tan sự thâm nghiêm u tịch trong chiếc am bé nhỏ, làm vang vọng cả một góc vườn. Tôi cảm thấy mình quá may mắn, được chứng kiến giây phút thăng hoa hiếm có của một đời người, đã hơn 80 tuổi, mới thấu hiểu sâu sắc được thế nào là: “nhân quả”.
BÙI NGỌC QUẾ