Trò chuyện với Đại úy Trần Ngọc Hòa, không hiểu sao hình ảnh của những con sông lại ám ảnh tôi đến thế. Mỗi chúng ta sinh ra, lớn lên đều gắn bó ký ức với dòng sông quê hương. Cũng có khi con sông ấy chẳng dính dáng gì đến nơi chôn nhau cắt rốn nhưng nó lại đầy ắp những kỷ niệm ngọt ngào. Chuyện của Đại úy Hòa và đồng đội anh gắn bó với một con sông như thế-Sông Măng!

Một góc làng Stiêng hôm nay.

Già làng Điểu BLố ghé tai Đại úy Trần Ngọc Hòa nói câu gì đó bằng tiếng dân tộc Stiêng rồi bỗng cả hai người lấy tay che miệng cười. Tôi chẳng hiểu gì nên cảm thấy chột dạ. Chết! Hay là mình có gì sơ suất trong giao tiếp, ảnh hưởng đến phong tục tập quán của đồng bào dân tộc Stiêng nên đã làm phật ý Già làng chăng? Gay thật! Dường như thấy cái bản mặt của tôi mỗi lúc một “nghệt” ra, Đại úy Hòa liền cười ha hả giải thích:

- Anh hỏi chuyện thiếu nữ Stiêng khiến chúng tôi nhớ đến những kỷ niệm ngày xưa nên không nhịn được cười.

Thì ra chuyện là vầy…

Mười năm trước, Trần Ngọc Hòa cùng đơn vị - Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 717, hành quân về xứ đại ngàn vùng biên giới Tây Nam thuộc tỉnh Bình Phước làm nhiệm vụ. Anh xung phong vào đội vận động quần chúng, xây dựng địa bàn, phát triển kinh tế ở vùng rừng núi huyện Bù Đốp. Với nhiệt huyết và sức vóc của một chàng trai trẻ quê Nghệ An, Hòa vượt núi, băng đèo đến những buôn làng, phum sóc sát biên giới, nơi có con sông Măng quanh năm nước trong vắt chảy giữa hai bờ đường biên. Vùng này hút mắt chỉ có rừng. Càng đi càng thăm thẳm. Giữa chốn đại ngàn âm u ấy, thỉnh thoảng lại có những ngôi làng nhỏ của cộng đồng người dân tộc Stiêng, dân tộc Chil sống du canh du cư, đốt rừng làm rẫy. Họ dựng những căn nhà tạm chênh vênh bên sườn núi. Mùa khô họ phóng lửa đốt rừng; mùa mưa gieo hạt. Dụng cụ lao động của bà con chỉ là những đoạn gậy vạt nhọn một đầu, vừa đi vừa chọc lỗ xuống đất, bỏ vào đó những hạt bắp, đậu, lạc, lúa… Được vài vụ họ lại dời làng đến vùng khác.

Theo chương trình của Đoàn KT-QP 717, Hòa cùng đồng đội đi vận động đồng bào từ bỏ thói quen phá rừng, sống định canh định cư, trồng rừng cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế, xây dựng thế trận quốc phòng an ninh vùng biên giới vững mạnh. Nhưng được một thời gian thì Hòa… phát hoảng. Anh về báo cáo thủ trưởng đơn vị xin được ở lại trồng rừng chứ không đi vận động quần chúng nữa. Hỏi lý do, mặt Hòa đỏ bừng mà rằng “Tôi ngượng lắm”. Chả là, càng vào sâu trong rừng, Hòa càng gặp những chuyện… chẳng giống ai. Ở một số làng, phụ nữ người dân tộc Stiêng chỉ quấn mỗi cái khăn ở cổ, trễ xuống như cái võng ở phía trước bụng để địu con. Những người chưa có con thì cái khăn ấy lại dùng để che… lưng. Còn thì họ cứ để ngực trần như thế lên núi, lên rừng. Sau những giờ lên rẫy, họ lại ào xuống dòng sông Măng tắm… “tiên”. Là một thanh niên chưa vợ, gặp những hình ảnh như vậy, Hòa rất… ngượng.

Giờ đây ngồi trò chuyện với tôi, nhớ lại những kỷ niệm ngày ấy, Hòa không nhịn được cười. Anh nói dí dỏm:

- Cái mà mấy ông nhà văn, nhà báo các anh luôn dùng những ngôn từ hoa mỹ để diễn tả, ngợi ca, đối với phụ nữ giữa đại ngàn này cứ như là củ khoai, cái bắp trên rẫy vậy thôi.

- Bây giờ còn chuyện như vậy nữa không? – Tôi hỏi.

- Không! – Già làng Điểu BLố trả lời thay cho Đại úy Hòa – Hiện nay người Chil, người Stiêng sinh sống, làm ăn chung với người Kinh rồi, chẳng còn chuyện phụ nữ để ngực trần nữa đâu.

Già làng Điểu BLố nói tiếng Việt bằng âm điệu lơ lớ đặc trưng của đại ngàn Tây Nguyên. Mà kể cũng lạ. Gọi là Già làng nhưng thực ra Điểu BLố chưa tới 40 tuổi. Lẽ thường, những người được gọi là Già làng phải là những bậc cao niên, được dân làng coi như cha như mẹ. Còn Điểu BLố thì… Hiểu được thắc mắc của tôi, Đại úy Hòa giải thích:

- Ở làng định cư của đồng bào Stiêng này, Điểu BLố là người được học hành cơ bản hơn cả. Nếu gọi theo đơn vị sản xuất thì làng Stiêng thuộc Tổ 1, Đội 3, Điểu BLố được bà con tín nhiệm bầu làm tổ trưởng. Khi lập làng, ổn định cuộc sống của bà con, lãnh đạo, chỉ huy Đoàn KT-QP 717 xác định, vừa giúp dân phát triển đời sống kinh tế, vừa khôi phục, giữ gìn, phát triển những giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào. Muốn làm được việc đó thì Già làng phải là người có nhiều cái chữ, giỏi làm ăn. Với những tiêu chí đó Điểu BLố thật xứng đáng được dân làng bầu giữ cương vị Già làng. Nghe Đại úy Hòa giới thiệu thế, Điểu BLố không giấu được sự vui mừng và tự hào. Già làng Điểu BLố đứng dậy, nắm tay tôi kéo ra phía trước nhà. Điểu BLố đưa tay khua một vòng như muốn thu hết cái không gian xanh thẫm bạt ngàn trước mặt, rồi chỉ về phía tây nói với tôi:

- Đó! Ngày trước tụi tui sống như con hoẵng, con nai ở những dãy núi sương mù bao phủ kia kìa. May nhờ bộ đội đưa về đây lập làng, dạy cách làm kinh tế hộ gia đình phát triển đời sống nên mới có ngày hôm nay. Giờ đây các hộ trong làng sống khỏe lắm. Riêng tui, thu nhập hằng tháng cũng cỡ hơn bốn triệu đồng.

Điểu BLố sinh trưởng tại xã Lộc Quang, huyện Lộc Ninh. Vùng quê ấy đất cằn đá sỏi chỉ sau vài mùa rẫy đã bạc phơ bạc phếch. Năm mười chín tuổi, Điểu BLố được tuyển chọn lên đường nhập ngũ, trở thành chiến sĩ ở Quân khu 7. Điểu BLố được đơn vị quan tâm cho đi học tại trường Trung học Biên phòng. Về đơn vị cơ sở công tác một thời gian, vì lý do sức khỏe nên anh xuất ngũ về quê. Người làng dân tộc Stiêng của Điểu BLố lúc bấy giờ đã ngược về rừng núi vùng biên giới kiếm cái ăn. Mấy chục hộ gia đình dựng chòi ở vùng Cần Đơn làm rẫy. Đã biết bao mùa rẫy đi qua, nhưng cuộc sống của những người du canh du cư cũng chẳng khá lên. Con chữ, ánh sáng điện đối với bà con là một thứ gì đó vô cùng lạ lẫm. Đến khi Nhà nước triển khai dự án xây dựng công trình thủy điện Cần Đơn, dân làng mới thực sự được đổi đời. Điểu BLố kể:

- Để xây dựng công trình thủy điện Cần Đơn, tất cả các hộ dân sống bám vào rừng trong vùng dự án buộc phải giải tỏa trắng, vì chẳng có điều luật nào qui định dân làng được đền bù. Nhưng Đảng, Nhà nước đã không bỏ mặc dân làng. Dân làng được Đoàn KT-QP 717 đón về định cư tại vùng đất này. Với những kiến thức học được từ những năm tháng trong quân ngũ, tui muốn được góp sức mình cùng bộ đội Đoàn KT-QP 717 giúp dân làng ổn định, phát triển đời sống.

Trong vườn tiêu của dân làng Stiêng

Được dân làng tín nhiệm và được bộ đội tin tưởng, Điểu BLố hứa trong ngày “nhậm chức” già làng, sẽ phấn đấu nỗ lực để xứng đáng là trung tâm đoàn kết của dân làng, giữ gìn, phát huy những phong tục tập quán, văn hóa tốt đẹp của người Stiêng.

Đại úy Trần Ngọc Hòa được cấp trên tín nhiệm giao nhiệm vụ là đội phó Đội sản xuất, trực tiếp giúp dân làng cách làm ăn mới. Ban đầu anh cùng đồng đội dựng lán cho dân ở tạm. Rồi những ngôi nhà mới tường xây mái tôn sáng bóng dần được xây dựng. Đại úy Hòa kể:

- Ở nơi thâm sơn cùng cốc này chẳng có tên gọi nên ban đầu tôi đặt tên cho làng là “làng Lở”. Ấy là bởi con suối nơi cánh rừng phía trước cứ vào mùa mưa lại dâng nước cuồn cuộn, làm những mảng đất ba dan bên bờ lở lói đỏ au. Vả lại tôi cũng muốn lấy ý của một câu phương ngôn của người xứ Nghệ “Miệng ăn lở rú lở ri (lở núi lở non)” để răn mình rằng, nếu không giúp đồng bào cách làm ăn mới để bà con tự lập trên chính luống cày của mình thì cho dù có hỗ trợ đến mấy cũng chẳng ăn thua.

... Bây giờ thì trước mắt tôi, khu làng đã bề thế, nhộn nhịp lắm. Làng không còn mang cái tên đầy tâm trạng của Đại úy Hòa ngày trước nữa. Làng được gọi bằng chính cái tên như là “thương hiệu” của đồng bào: Làng Stiêng. Ngót sáu chục căn nhà đều tăm tắp nằm cạnh con đường vừa được rải đá dăm. Phía trước là những cánh rừng cao su đang rộ kỳ thu hoạch mủ. Phía sau là những mảnh vườn tiêu. Những cọc tiêu cao quá đầu người khoe tán lá xanh um và những chùm quả đã bắt đầu mơ mơ vàng. Con suối hay lở giờ đã trở thành nguồn cung cấp nước cho các ao cá của các hộ dân. Cách làng Stiêng một khoảnh rừng là những mái nhà bình dị của những người lính, trong đó có mái ấm của Đại úy Hòa. Trụ sở làm việc của các cán bộ Đội 3 nằm ở khoảng giữa. Làng Stiêng bây giờ nhiều người còn giỏi làm ăn hơn cả công nhân của đội. Bàn chân vốn đã quen trèo đèo lội suối nên bà con làm việc rất khỏe. Tôi cũng đã được chứng kiến những thanh niên của làng hai tay xách hai thùng mủ cao su đầy ắp, ước chừng mỗi thùng độ ba chục ki-lô-gam, bước phăm phăm...

Điểu BLố lại phá lên cười. Lần này thì vị Già làng trẻ không lấy tay che miệng nữa mà cười thật sảng khoái. Hóa ra cũng lại là nhớ về chuyện cũ. Chuyện là cái vụ sản xuất đầu tiên sau khi định cư, bộ đội trích quỹ hỗ trợ bà con mua giống cây trồng. Đưa mười tờ 10.000 đồng thì bà con vui vẻ, nhưng đưa một tờ 100.000 đồng thì nhiều người lắc đầu nguây nguẩy: “Bộ đội cho người đó nhiều tờ mà tui có một tờ à, hổng lấy đâu”. Thế đấy! Ngày đó dân làng có nhiều người còn chưa biết đếm tiền. Mà cũng đã xa lơ xa lắc gì đâu. Mới có dăm bảy năm trước thôi...

Đêm xuống, tôi cùng mấy anh em rảo bộ ngắm rừng, nghe tiếng trẻ đánh vần rộn lên phía làng, lòng nao nao nhớ về tuổi vỡ lòng gian khó chốn quê nghèo. Trong bài học thuộc lòng của các cháu hôm nay có những câu thơ thật hay về con sông quê hương. Con sông Măng dù nhỏ bé, chỉ như một sợi chỉ mảnh trên tấm bản đồ, nhưng với những thế hệ con người nơi xứ sở đại ngàn này, nó là một dòng ký ức thật đẹp, thật to lớn và thiêng liêng. Và trong dòng ký ức ấy, tên của những con người như Đại úy Hòa và đồng đội của anh sẽ được viết lên thật đẹp.

Bài và ảnh: THANH KIM TÙNG