Anh hùng Tôn Minh Lai

Người mang mật danh M.40 là ai? Câu hỏi này, trong gần 28 năm (từ 1947 đến 1975), hết thực dân Pháp rồi đế quốc Mỹ cùng các loại tay sai, phản động ra sức tìm tòi, để rồi cũng chừng ấy năm, chúng tốn biết bao công sức của hàng bầy chỉ điểm, phòng nhì, mật vụ và hàng trăm quỷ kế tinh vi nhưng vẫn không thể tìm ra.

Cho đến ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, non sông thu về một mối, người chiến sĩ ấy mới ít nhiều hé mở quá trình đấu tranh thầm lặng của mình.

Tên thường gọi của ông là Tôn Minh Lai, còn tên thật là Võ Ngọc Minh. Ông sinh ngày 3-3-1903, lớn lên ở thị xã Phú Cường (cũ), tỉnh Sông Bé. Ba má nghèo, cậu bé Minh không được học hành. Năm 15 tuổi, Minh phải đi làm thuê, giúp việc một nhà buôn đường dài theo tuyến Nam Vang – Cao Miên. Do chịu khó, Minh được vợ chồng nhà buôn ấy quý mến, cho đi học hết tiểu học. Nhờ đó, anh xin được vào làm cho một công ty trồng trọt ở Công Pông Chàm, rồi làm khoán cho một công ty vận tải bên Lào. Đang làm, ông được tin Cách mạng Tháng Tám thành công, nước nhà có độc lập. Mấy anh em người Việt mừng quá, bèn rủ nhau về tham gia phong trào địa phương.

Hồi đó, Võ Ngọc Minh đã ngoài 40 tuổi nên tham gia đoàn thể chưa được chấp nhận ngay. Mãi đầu năm 1947, thấy anh hăng hái, cấp trên mới chấp nhận cho anh gia nhập Vệ quốc đoàn và được phân công làm giao thông của Ban Quân báo tỉnh Châu Đốc. Một thời gian sau, anh được chọn đi học lớp tình báo và cái tên Tôn Minh Lai đã ra đời.

Công việc bình phong mà Tôn Minh Lai chọn là bán bánh mì rồi chuyển sang nghề đi mua vỏ chai khắp thị xã Rạch Giá. Anh đến cả đồn quân Pháp đóng để nắm tình hình, rồi vẽ sơ đồ, nhận tin các cơ sở của ta rồi đưa ra cứ, chuyến nào cũng an toàn, trót lọt. Yêu cầu nhiệm vụ mỗi lúc một khẩn trương hơn trong khi thực dân Pháp kiểm soát ngày càng gắt gao. Bọn mật vụ được cài khắp nơi, khó bề đi lại. Thấy thế, Tôn Minh Lai nghĩ ra cách làm nghề đạp xích lô cho phù hợp với việc phải đi lại nhiều, cả ban ngày lẫn ban đêm. Công việc hợp lý này được cấp trên chấp nhận và chuyển tiền cho anh mua một chiếc xích lô, vừa là phương tiện “kiếm ăn”, vừa cất giấu tài liệu mà địch ít ngờ tới.

Có một lần, vào giữa năm 1952, cấp trên yêu cầu anh mua thuốc cho thương binh ngoài căn cứ với số lượng lớn. Loại thuốc này địch cấm ngặt, không cho mang khỏi thị xã. Bao gói lại to nên khó cất giấu. Tôn Minh Lai phải mang nhiều lần, tập kết ở một làng ven thị xã. Nhân lúc bà con đi trồng khoai ở bờ sông, anh xếp thuốc vào giữa dây khoai, vai gánh, tay cầm cuốc đi lẫn với dân ra trồng ở ven sông. Thừa lúc vắng người, anh cho khoai xuống ghe bơi ra sông. Qua được giữa dòng thì thấy lính ngụy chạy từ trong làng chạy ra, lấy súng dọa bắn và bắt anh quay lại. Tôn Minh Lai đành đánh chìm ghe, còn mình thì ngụp một hơi dài. Địch bắn theo như vãi đạn nhưng may là anh không việc gì. Một lúc sau, thấy lặng, anh mới tìm về cứ báo cáo. Đồng đội mừng cho anh, còn anh cứ tiếc hoài túi thuốc lớn để chữa bệnh cho anh em.

Sau lần bị rượt đuổi đó, Tôn Minh Lai nhận định địch vẫn chưa nhận ra mình, nên với giấy tờ hợp pháp, anh tìm đường trở về hoạt động và vẫn đạp xích lô như thường. Hằng ngày, anh lại nhận tài liệu đi về đầy đủ, nhất là những lúc dồn dập có tin chiến thắng thì có đi miết cả ngày đêm, anh cũng vẫn hát thầm trong miệng.

Tin chiến thắng Điện Biên Phủ dồn dập bay về, bao chiến sĩ cách mạng ở miền Nam mừng vui khôn xiết, mong ngóng ngày hòa bình, độc lập. Ngay lúc ấy, cấp trên gọi anh ra cứ mừng chiến thắng và giao nhiệm vụ mới. Anh được phân công ở lại làm việc cho Tỉnh ủy Rạch Giá, còn phần đông chuẩn bị đi tập kết. Hòa bình đến nhưng ngày hội của nhân dân Rạch Giá chỉ thoáng qua chốc lát, cảnh đời không có tự do lại ngày càng nghẹt thở dưới ách cai trị mới. Nhiệm vụ bí mật của Tôn Minh Lai vì vậy tăng nhiều hơn. Nhiều lần, anh đem truyền đơn của Tỉnh ủy chuyển cho cơ sở đi rải khắp nơi, tố cáo Mỹ-Diệm dùng chính sách tố Cộng, diệt Cộng, trả thù những người kháng chiến. Có lần, địch phát hiện được người cùng tổ với Lai và một cơ sở của anh bị vỡ. Anh phải tránh mặt một thời gian. Mọi liên lạc của anh với tổ chức đều bị đứt. Biết là không ổn, anh bèn chuyển địa bàn hoạt động về Sài Gòn? Lúc đó là tháng 10-1955.

Hằng ngày, anh vẫn trung thành với phương kế kiếm ăn – đạp xích lô cũ. Chiếc xích lô biển số 1938 mà anh tự sắm trong dịp này đã trở thành “người bạn đường” tri kỷ, gắn bó với cuộc đời hoạt động của anh. Hồi ấy, ngày cũng như đêm, ngày mưa cũng như ngày nắng, có ngày anh đạp xe 16 giờ trên đường. Lúc hối hả đạp xe kiếm khách, lúc lại thẫn thờ, trông ngóng, hy vọng tổ chức cho người tìm đến. Chẳng mấy chốc mà thời gian biệt tin với tổ chức đã lên đến 10 năm. Biết bao lần, Tôn Minh Lai bạo dạn vượt ra ngoại ô ngóng chờ nhưng rồi lại buồn bã quay về, chờ đợi…

Chiếc xích lô mang biển số 1938 của Anh hùng Tôn Minh Lai. Ảnh tư liệu

Một ngày đầu tháng 3-1967, anh chở một vị khách lạ. Vị này ngồi trên xe mà cứ quay lại nhìn anh và hỏi thăm trúng tên anh. Lúc này, bụng anh mừng quýnh nhưng vẫn phải tảng lờ. Nguyên tắc hoạt động đòi hỏi anh phải cẩn trọng. Người khách này là anh Năm – một cán bộ mà Tôn Minh Lai có biết. Nhưng anh Năm đã tập kết ra Bắc, nay ở đây làm gì? Hay đã thành “người của địch” rồi? Anh đành trả lời quấy quá, rằng: “Tôi chỉ làm ăn nuôi con, không có quen biết ông”. Tới một ngã tư, vị khách xin xuống và nói lời chia tay. Nhìn bóng anh Năm đi hút vào dòng người mà đầu óc Tôn Minh Lai cứ nghĩ về tổ chức hoài. Tổ chức đã tìm ra anh rồi hay sao? Nhiều lần nghe tin chiến thắng, tin miền Bắc bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, anh thấy sướng cái bụng lắm mà không có ai chia sẻ. Hằng ngày, mải miết suy nghĩ về chuyện gặp lại anh Năm, anh thường trở lại ngã tư cũ, mong nhận được tín hiệu gì đó mới.

Thế rồi, vào một ngày tháng 6, cũng trên đoạn đường đó, anh Năm xuất hiện vẫy xe của anh đi rất tự nhiên. Vừa đi, anh Năm vừa đặt thẳng vấn đề và trao lá thư có quy ước ra gặp anh Năm Sản ở Rạch Ruộng (anh Năm Sản trước đây là người phụ trách của Tôn Minh Lai). Thật không có gì mừng hơn. Hy vọng, mong chờ 10 năm, nay lại được đứng vào guồng máy sục sôi của cách mạng. Ra cứ một ngày nhận nhiệm vụ, Tôn Minh Lai quay lại làm nhiệm vụ ngay, do anh Năm trực tiếp chỉ đạo. Mỗi tháng ba lần gặp gỡ bằng quy ước và qua hộp thư mật, anh nhận tài liệu đem đi và đưa về. Đường đi thường phải qua hai trạm gác, một của Mỹ, một của ngụy nên luôn phải ngụy trang hợp lý. Lúc thì anh sắm vai đi thăm bà con, lúc đi ăn hỏi, lúc đi lễ chùa… Vai nào, thì mang theo thức ấy như hương, trà, hoa quả… Tất cả những lần đưa tài liệu của anh đều trót lọt, nhất là vào thời kỳ Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968, mùa Xuân 1972… Bọn địch phong tỏa, tăng cường tay sai, mật vụ, chỉ điểm nhan nhản khắp nơi, nhưng chúng vẫn bị một chiến sĩ cách mạng hoạt động ngay trước mắt mà không hề hay biết. Cũng có lúc, cấp trên còn cử cán bộ từ ngoài cứ vào, giao cho anh tài liệu và trách nhiệm dẫn đi cơ sở. Công tác nguy hiểm, dễ lộ này ngày một tăng theo tiến trình phát triển của cách mạng. Nhiều tài liệu quan trọng, nhiều tin chiến thắng liên tục đi về nhưng Tôn Minh Lai không kể hiểm nguy, nghĩ ra rất nhiều mẹo bảo đảm an toàn cho mình và cho cấp trên, đồng đội.

Cuối năm 1974, cơ sở có việc hệ trọng, cần gửi ngay một tấm bản đồ Sài Gòn – Gia Định có đánh dấu các điểm ngụy quân, ngụy quyền và quân Mỹ đóng chốt ra căn cứ. Tấm bản đồ khá lớn, anh đã gấp lại nhưng vẫn không thể nào ngụy trang kín vào hàng hóa được. Tôn Minh Lai bỗng nghĩ ra cách nhét vào áo ở trong bụng, đầu đội mũ phớt, tay xách túi quà, thủng thẳng đi. Từ xa, nhìn thấy trạm gác Tôn Phú Chung (Củ Chi), địch đang xét hỏi rất gắt gao. Anh vừa đi, vừa nghĩ các phương án đối phó. Phương án cuối là nếu bị phát hiện, sẽ nhận rằng có nguời thuê rất nhiều tiền, rồi sẵn sàng chịu đựng tra tấn, tù đày, hy sinh, nhưng sẽ không liên quan đến tổ chức. Đang thư thả đi, anh để ý thấy có hai cô gái đi cùng chiều. “Mỹ nhân kế” được anh thoáng nghĩ đến. Thế là, anh đi chậm lại cho hai cô gái vượt lên trước. Quả nhiên, thấy hai cô gái xinh xắn, quân ngụy nhao ra, đứa nào cũng đòi kiểm tra. Các cô gái này, chẳng biết là người như thế nào nhưng lúc ấy rất đưa đẩy, cứ thầy hai, anh hai… Chỉ một tích tắc hiếm có ấy, Tôn Minh Lai chộp lấy cơ hội, bước nhanh lên, ngả mũ chào rồi vượt qua khu vực kiểm soát, thoát nhanh về hướng căn cứ.

Không lâu sau chuyến đi táo bạo ấy, anh nhận nhiệm vụ đón các đoàn quân tiến vào giải phóng Sài Gòn. Đất nước hòa bình, độc lập, Tôn Minh Lai và chiếc xe xích lô mang biển số 1938 trở thành một phần huyền thoại trong lịch sử ngành tình báo cách mạng anh hùng. Những năm tháng cuối đời, ông sống giản dị và rất ít khi kể chuyện về quá trình hoạt động của mình. Cả cuộc đời tham gia cách mạng, ông không có hạnh phúc riêng. Năm 1992 ông trở về với tổ tiên ở tuổi 90, tang lễ được tổ chức rất trang trọng. Chỉ đến khi nhìn dòng chữ: “Kính viếng đồng chí Đại úy Tôn Minh Lai, Anh hùng LLVT nhân dân” đề trên vòng hoa, bà con sống xung quanh và một số người bạn già từng cùng hành nghề xích lô mới ngỡ ngàng được biết ông – một tình báo viên thầm lặng.

Có lẽ, đó cũng là một phẩm chất để ông trở thành người anh hùng sống mãi trong lòng nhân dân.

Bài và ảnh: TRẦN ĐÌNH