Ông là Đại tá Phạm Duy Tam, nguyên Phó tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân, nguyên thuyền trưởng tàu không số (Đoàn M25, quân chủng Hải quân hiện nay). Hiện, ông đang ở số nhà 20, đường Triệu Việt Vương, phường An Hải Tây, quận Sơn Trà (TP Đà Nẵng).

Đại tá Phạm Duy Tam (thứ ba từ phải sang) cùng các đồng đội trên  biên đội tàu đầu tiên đi giải phóng Trường Sa. Ảnh: CTV

Sở dĩ tôi biết rõ về ông như vậy, vì cách đây 34 năm, vào ngày 11-4-1975, lúc đó tôi là hạ sĩ, chiến sĩ Tiểu đoàn Đặc công hậu cứ 471 của Quân khu 5, được tham gia phối thuộc với lực lượng đặc công nước Đoàn M26 làm nhiệm vụ giải phóng Trường Sa. Chuyến đi ấy biên đội tàu do ông làm thuyền trưởng gồm ba chiếc: 673, 674 và 675. Sau ngày đất nước giải phóng ông có thời gian dài công tác ở Đà Nẵng, với cương vị Phó chỉ huy trưởng Vùng C Hải quân, rồi ra quân chủng làm tham mưu phó. Khi nghỉ hưu ông lại về với Đà Nẵng. Còn tôi, sau gần 9 năm làm nhiệm vụ quốc tế ở Cam-pu-chia, về công tác tại Báo Quân đội nhân dân, gặp lại ông và trở thành bạn vong niên cho đến nay.

Tôi đã nhiều lần hỏi ông về những kỷ niệm sâu sắc khi cùng những con tàu không số huyền thoại, vượt biển chở vũ khí phục vụ bộ đội trên các chiến trường Khu 5, Khu 6 và Nam Bộ. Ông bảo, kỷ niệm thì nhiều, nhưng sâu sắc nhất là chuyến đi biển trên đội tàu 42. Ông kể: “...Đầu năm 1969, tôi cùng một số đồng chí tốt nghiệp Trường Sĩ quan 45 (nay là Học viện Hải quân), được điều về nhận công tác ở Đoàn 125. Lúc đó, tôi được bổ nhiệm làm Phó thuyền trưởng đội tàu 42. Và chuyến đi vào miền Nam bằng đường biển đầu tiên trong cuộc đời thật bất ngờ và bí mật. Vào giữa tháng 8-1969, Đảng ủy, chỉ huy Đoàn 125 giao nhiệm vụ cho chúng tôi chuẩn bị đầy đủ một tháng lương thực, dầu máy, nước ngọt đủ một cơ số, hành quân vào Thanh Hóa và Nghệ An làm nhiệm vụ đưa đón các đoàn của Tỉnh ủy và UBND hai tỉnh ra thăm, làm việc ở đảo Mê và đảo Mắt. Khi tàu rời cảng K20, chúng tôi được đồng chí Tham mưu trưởng Đoàn 125, chỉ thị đi theo sự hướng dẫn của đồng chí trợ lý hàng hải. Khi tàu đến neo ở một địa điểm bí mật, chúng tôi hỏi nhau “Sao đi đưa đón cán bộ lại neo ở đây?”. Chúng tôi ở lại đó khoảng 5 ngày. Trong khoảng thời gian ấy, chúng tôi được tập trung huấn luyện xử lý các tình huống, sử dụng các loại vũ khí và phương án  rời tàu; đánh bộc phá khi cần phá hủy tàu... Một số chiến sĩ được tăng cường cho tàu, trước khi rời đơn vị cũ, người thì nhận quyết định đi phục vụ cho Đoàn M26; người thì đi làm chứng cho một vụ án... Tất cả được xe bịt kín chở đi trong đêm. Chỉ đến khi đến tàu, nghe phổ biến, chúng tôi mới biết mình được giao nhiệm vụ đi B. Chuyến đi đó tàu chúng tôi không chở vũ khí mà chở 45 tấn dầu. Ngày 20-8-1969, khi tàu rời khu neo bí mật, chúng tôi được cấp trên làm lễ truy điệu sống. Biết ra đi nguy hiểm là vậy, song trong mỗi chúng tôi, ai cũng thanh thản, cũng cảm thấy nhẹ nhõm, không hề có bất cứ biểu hiện dao động nào. Vượt chặng đường dài hơn 5.000 hải lý, luồn lách qua các vùng biển Trung Quốc, Ma-lai-xi-a, Thái Lan và Cam-pu-chia, chúng tôi đến được đảo Phú Quốc và Thổ Chu ở cực nam Tổ quốc. Suốt hành trình, chúng tôi không treo biển số hoặc tên tàu cố định, cũng không treo quốc kỳ của bất cứ nước nào. 1 giờ sáng ngày 1-9-1969, tàu chúng tôi bí mật vào cách đảo Phú Quốc chừng một ki-lô-mét để trinh sát. Đến trưa ngày 1-9, chúng tôi hành trình từ Phú Quốc đến Thổ Chu, lúc này trên trời có máy bay Na Vy của Hạm đội 7 Mỹ bám theo. Trước tình huống ấy, chúng tôi cho tàu hành trình ra Bắc, máy bay địch vẫn vè vè trên trời bám theo. Trên biển, hai bên mạn tàu có tàu khu trục của địch áp sát, có lúc chúng áp sát rất gần. Chi ủy chúng tôi hội ý chớp nhoáng, quyết định “đường ta, ta cứ đi” coi như không có việc gì xảy ra...”.

Trầm ngâm một lúc, ông hồ hởi “Cuộc đấu trí ấy chúng tôi đã thắng, có lúc tàu khu trục Mỹ cố tình lao thẳng vào tàu chúng tôi, song gần đến nơi chúng tự bẻ lái để tránh. Cứ như vậy, gần cả tuần trên biển, chúng không đánh hơi được gì, đành phải bỏ đi. Anh hỏi tôi về  kỷ niệm sâu sắc trong chuyến đi này ư, đó là chuyến đi chúng tôi vừa có niềm vui, vừa trĩu nặng nỗi buồn. Vui vì được trên thông báo, trong Lễ Quốc khánh, Bác Tôn thay mặt Đảng, Nhà nước tặng hoa cho đội tàu 42. Buồn vì chúng tôi phải giấu anh em về sự ra đi của Bác Hồ. Tôi nhớ mãi, khi tàu chúng tôi đến ngang Phan Thiết, đồng chí thợ máy lên đài chỉ huy mếu máo “em vừa nghe Đài Tiếng nói Việt Nam thông báo Bác Hồ đã vĩnh biệt chúng ta”. Nghe vậy đồng chí Chính trị viên, phải nói át đi để mọi người khỏi nghe thấy. Đêm 9-9-1969, tàu chúng tôi được 3 tàu của nước bạn Trung Quốc ra tận cửa biển bán đảo Lôi Châu dẫn đường cập cảng Hải Khẩu. Sáng hôm sau toàn tàu mới chính thức được thông báo tin Bác mất. Cả tàu làm lễ truy điệu Bác trên đất bạn...”.

Những kỷ niệm của 40 năm về trước, vẫn tươi rói trên khuôn mặt dạn dày sương gió của người thuyền trưởng bảy lần truy điệu sống. Ông vui mừng thông báo với tôi: Đảng, Nhà nước đã quyết định tặng thưởng Huân chương Chiến sĩ giải phóng cho cán bộ, chiến sĩ Đoàn tàu không số tham gia mở đường Hồ Chí Minh trên biển trong những năm chiến tranh. Quốc hội cũng đã yêu cầu Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội thanh toán chế độ “đi B” cho tất cả những người đã tham gia. Hỏi ông về nguyện vọng, không đề xuất gì, song chỉ có một ước ao là được trở về thăm chiến trường xưa, chiến trường như ông nói đấy là quần đảo Trường Sa, nơi ông và hai thuyền trưởng khác, lần đầu tiên đi giải phóng Trường Sa. Xin được chuyển nguyện vọng chính đáng này của các ông đến Bộ tư lệnh Hải quân và mong rằng, nguyện vọng này sớm trở thành hiện thực.

LÂM QUÝ