Kỳ 3: Gương sáng bon làng
1 - Những bông hoa đầy hương sắc
Trong cuộc sống mới ở 8 huyện, thị xã thuộc tỉnh Đắc Nông, đã xuất hiện ngày càng nhiều tấm gương tiêu biểu trên mọi lĩnh vực. Đó là những bông hoa đầy hương sắc trên cao nguyên ba-dan đất đỏ.
Cựu chiến binh, thương binh Trần Xuân Quyền ở khối 6, thị trấn Kiến Đức, huyện Đăk R’Lấp, về với cuộc sống đời thường, vẫn luôn nêu cao ý chí, tinh thần, phát huy bản chất, truyền thống Bộ đội Cụ Hồ, tiếp tục khẳng định mình trên “mặt trận” làm kinh tế. Từ nguồn vốn dành dụm, ông mua 12ha đất để trồng 8ha cà phê và 4ha cao su. Nhằm đạt năng suất cao, Trần Xuân Quyền kiên trì tìm đọc các tài liệu hướng dẫn cách áp dụng khoa học kỹ thuật vào gieo trồng. Thêm vào đó, ông tận dụng quỹ đất, trồng xen chanh dây và nuôi hàng chục con bò để tăng thu nhập. Với cách làm đó, gia đình ông đã có một cơ ngơi khang trang, mang lại thu nhập hằng năm lên tới gần một tỷ đồng; giải quyết việc làm cho 20 lao động con em thương binh, đồng bào dân tộc thiểu số và giúp vốn cho nhiều cựu chiến binh vươn lên làm giàu.
Cũng tương tự như cựu chiến binh, thương binh Trần Xuân Quyền, đi tiên phong ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, ông Lê Xuân Phúc ở thôn Thuận Bắc, xã Thuận An, huyện Đăk Mil, được bà con địa phương gọi là “kỹ sư” nông dân. Vườn cà phê của ông thường xuyên có nhiều người đến tham quan, học kinh nghiệm chăm sóc. Nhìn những cây cà phê xanh tươi, tràn trề sức sống, trĩu quả chín mọng, ai nấy tấm tắc khen ngợi. Chỉ với 1.600 gốc cà phê, mỗi năm gia đình ông Phúc thu hoạch bình quân 9 tấn. Nhiều bà con được ông nhiệt tình hướng dẫn hoặc thực hành trực tiếp từ công đoạn làm cành, tạo tán cho đến khâu bón phân, phun thuốc để mọi người dễ hiểu và vận dụng. Thường vậy, sau mỗi mùa thu hoạch cà phê xong, ông Phúc lại “chấn chỉnh trang phục”, cắt tóc, cạo râu và tự nguyện đến nhà văn hóa, hội trường ở các thôn, bon, đứng trên “bục giảng” trao đổi truyền đạt kinh nghiệm sản xuất. Thậm chí, có lúc “kỹ sư” nông dân đang đi xe máy trên đường, có người gọi lại hỏi cách phun thuốc và chữa trị sâu đục thân cây cà phê, ông dừng xe hồi lâu, tận tình chỉ dẫn.
 |
|
Bộ đội Biên phòng tỉnh Đắc Nông bảo vệ đường biên mốc giới. Ảnh: TL
|
Cũng như ông Quyền, ông Phúc, “tiếng lành đồn xa”, gương bà Ngô Thị Dệt, cựu chiến binh ở xã Thuận Hạnh, huyện Đăk Song (một trong 7 xã giáp Cam-pu-chia) về sản xuất, hoạt động xã hội được nhiều người dân trong vùng biết đến. Bà trồng trọt, chăn nuôi với mô hình vườn - ao - chuồng, có hơn 10ha cà phê, cao su, thu hút gần 100 lao động, hầu hết là con em thuộc đối tượng chính sách, có thu nhập 2,5 triệu đồng/người/tháng. Ngoài ra, bà Dệt còn cho cựu chiến binh vay vốn hàng tỷ đồng để sản xuất, không tính lãi; hiến gần 100m2 đất làm đường giao thông nông thôn. Cựu chiến binh Ngô Thị Dệt xứng đáng là gương sản xuất giỏi hoạt động xã hội của Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
2 - Đồn là nhà, biên giới là quê hương
Cũng ở xã của bà Dệt, xã Thuận Hạnh, có Đồn Biên phòng 763. Đây là một trong những đơn vị tiêu biểu về công tác vận động quần chúng của Bộ Chỉ huy Biên phòng tỉnh Đắc Nông. Với khẩu hiệu: “Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt”, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, đơn vị luôn phối hợp với các lực lượng như: Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên, Mặt trận Tổ quốc và dân quân xã, tuyên truyền vận động nhân dân không để kẻ xấu lợi dụng, gây chia rẽ, mất đoàn kết giữa các dân tộc. Cụ thể, đồn đã tổ chức 4 đợt tuyên truyền, với gần 20 buổi, gồm nhiều nội dung: Vận động nhân dân thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước; tích cực lao động sản xuất; nêu cao ý thức quản lý, bảo vệ rừng; chống âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của địch; đoàn kết, giữ vững an ninh chính trị, an ninh biên giới...
Bên cạnh công tác vận động quần chúng, đơn vị còn giúp địa phương củng cố 5 chi hội phụ nữ, 6 chi hội nông dân và 5 chi đoàn thanh niên. Được bà con các dân tộc tin tưởng, đã cung cấp cho đồn 50 tin, trong đó có 30 tin có giá trị, phục vụ cho công tác chính trị của đơn vị.
Thiếu úy Nguyễn Viết Hà, Đội trưởng Đội Vận động quần chúng Đồn 763 cho biết: Đội đảm nhiệm 14 thôn của xã Thuận Hạnh và hơn 300 hộ đồng bào tại chỗ của bon Sa Pa, bon Bu Đăk (xã Thuận An, huyện Đăk Mil). Đời sống của bà con những bon này còn gặp nhiều khó khăn. Do đó, Đội đã giúp dân bằng những việc làm cụ thể: Hướng dẫn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; bảo vệ, thu hoạch mùa màng; làm đường giao thông và ăn ở vệ sinh sạch sẽ, xây dựng phong trào “Toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”.
Thi đua với Đồn Biên phòng 763, Đồn Biên phòng 769, huyện Tuy Đức đã tích cực giúp dân xóa đói, giảm nghèo. Đơn vị chọn mô hình chăn nuôi gà Mông, cử người đi học cách xây dựng chuồng trại, phương pháp chăm sóc và nuôi thí điểm 100 con. Qua 3 tháng, mỗi con đạt 1,8 đến 2kg, thu lãi gần 100 nghìn đồng/con. Từ kết quả trên, Đồn 769 quyết định giúp con giống cho một số bà con dân tộc thiểu số nghèo để chăn nuôi.
Gia đình anh Điểu Nh’Hớt ở bon Bu S’op, xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức là một trong những hộ nghèo đặc biệt của địa phương. Từ nguồn vốn “Mái ấm biên cương”, đơn vị đã xây cho anh căn nhà gỗ rộng 60m2, trị giá 30 triệu đồng. Đồn còn giúp gia đình nuôi 100 con gà Mông, kèm theo sự hướng dẫn phương pháp chăm sóc và cách phòng bệnh cho gà. Sau 3 tháng, đàn gà Mông của Điểu Nh’Hớt, mỗi con nặng gần 2kg; giá 120.000đ/kg, thu được gần 20 triệu đồng. Nhìn quang cảnh nhà cửa khang trang, đàn gà tiếp tục sinh sôi, phát triển, anh xúc động nói với chúng tôi: “Trước đây, nhà mình làm quần quật cả ngày mà cơm không đủ ăn, quần áo chẳng lành lặn. Bây giờ có ngôi nhà khang trang; có tiền mua sắm bàn ghế, tủ giường để phục vụ sinh hoạt, gia đình cám ơn Bộ đội Biên phòng nhiều lắm...”.
Mô hình nuôi gà Mông đang được Đồn 769 nhân rộng ra nhiều gia đình khác ở địa phương. Đơn vị tích cực giúp chuyển giao con giống, hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi cho các hộ nhằm góp phần nâng cao đời sống của nhân dân. Những việc làm cụ thể, thiết thực của Đồn 769 cũng như nhiều đồn biên phòng khác ở tỉnh Đắc Nông đối với bà con các dân tộc, đã nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng cho quần chúng. Từ đó, mỗi người dân không chỉ nhiệt tình giúp các chiến sĩ biên phòng hoàn thành nhiệm vụ mà còn tích cực tham gia xây dựng thế trận biên phòng vững mạnh. Ở nơi biên giới thuộc 7 xã của tỉnh Đắc Nông, tình đoàn kết quân dân chính là cội nguồn sức mạnh để các chiến sĩ biên phòng cùng với lực lượng dân quân cũng như các đoàn thể cựu chiến binh, phụ nữ, thanh niên kết thành phên giậu vững chắc bảo vệ chủ quyền đất nước.
3 - “Cây đoàn kết”
Bản chất, truyền thống anh Bộ đội Cụ Hồ không chỉ tích cực phát huy đối với các chiến sĩ đang cầm súng bảo vệ Tổ quốc, mà khi về với đời thường, nhiều người vẫn nêu gương sáng để đồng đội và nhân dân học tập.
Lực lượng cựu chiến binh ở tỉnh Đắc Nông hầu như ai cũng biết ông Niê Sóc, người dân tộc Ê Đê. Năm nay ông đã 83 tuổi. Ông là Đại tá, nguyên Chỉ huy phó Chính trị Bộ CHQS tỉnh Đắc Lắc; hơn 50 tuổi Đảng. Khi về nghỉ hưu, được đồng đội tín nhiệm, ông là Chủ tịch Hội Cựu chiến binh huyện Đăk Mil hai khóa. Sau đó thành lập tỉnh Đắc Nông, mặc dù tuổi cao, sức yếu nhưng vì có nhiều uy tín của Niê Sóc đối với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên nên Đảng ủy, chính quyền địa phương yêu cầu ông ở lại tiếp tục làm Chủ tịch Hội Cựu chiến binh huyện Đăk Song hai khóa nữa cho tới hiện nay.
Phải nói rằng, Niê Sóc là “trung tâm” đoàn kết bà con các dân tộc ở địa phương. Ông luôn đi sâu, đi sát, nắm vững tình hình; hiểu người, biết dùng người; cùng đồng đội giải quyết có tình, có lý mọi vụ việc phức tạp.
Năm 2004, bị bọn xấu cầm đầu là tên Y Lem (bố hắn là “trung tá” FULRO) mua chuộc, kích động, một số đồng bào địa phương hùa nhau đi biểu tình đòi thành lập “Nhà nước Đề Ga”. Niê Sóc cùng cựu chiến binh Y Ghét, vào cuộc, giải thích phải, trái, vạch trần âm mưu của địch. Lời lẽ khẩn khoản, tha thiết, thắm tình dân, nghĩa Đảng của ông già Niê Sóc, bằng tuổi cha, ông họ, đã thuyết phục được người dân vui vẻ, đồng thuận, ai về nhà nấy.
Căng thẳng và không kém phần nan giải là vụ xâm lấn đất đai ở một nghĩa địa. Bà con các dân tộc tại đây có tập quán, chôn người chết không đắp thành mộ. Trong ba năm đầu, ngày ngày thường tới cho hồn ăn. Hết thời gian “bỏ mả” thì đất lấp đầy, phần mộ phẳng phiu trên mặt đất. Nhân dân tỉnh Hà Nam Ninh (cũ) đi kinh tế mới, trồng cà phê lấn sang cả đất nghĩa địa. Cà phê tốt chưa từng thấy. Hơn 50 gia đình bà con các dân tộc có mộ phần người thân trong nghĩa địa bắt những người vi phạm nộp phạt gần 500 triệu đồng. Số tiền quá lớn, những người “áo ngắn” lấy đâu ra. Chuyện giằng co qua lại mấy tháng trời. Cuối cùng, chính quyền yêu cầu ông Niê Sóc giúp đỡ hòa giải.
Đứng trước bà con các dân tộc, ông thân tình trò chuyện như với người trong gia đình:
- Trước đây, ta thường nói “ma cũ bắt nạt ma mới”. Nhưng bây giờ khác rồi. Người trong một nước phải thương nhau cùng; ma cũ phải giúp ma mới làm ăn. Cũng vì miếng cơm manh áo, bà con miền Bắc phải dời nơi chôn nhau cắt rốn, vào đây sinh sống. Mọi nhà chân ướt, chân ráo còn đang chạy ăn từng bữa thì lấy đâu ra tiền để đền bù lớn như vậy...
Nghe ông Niê Sóc nói, mọi người hiểu ra và đồng tình. Cuối cùng, ông bảo mấy thanh niên trẻ mua 6 két bia, nước ngọt về giải khát và yêu cầu bà con Hà Nam Ninh chi 20 triệu đồng làm bữa liên hoan Đại đoàn kết giữa các dân tộc ở địa phương; kết thúc tốt đẹp vụ kiện cáo xâm lấn đất đai ở nghĩa địa. Trong bữa liên hoan, mọi người vui vẻ đến chúc tụng “cây Đoàn kết” Niê Sóc - biệt danh thân mật bà con thường gọi ông - ngày càng tốt cành xanh lá, tỏa bóng mát xuống bon làng.
Ghi chép của Chi Phan
Kỳ 1: Tình đất, tình người
Kỳ 2: Nói phải, làm hay
Kỳ 4: Tài sản văn hóa thấm đẫm sắc thái các dân tộc