Kỳ II: Nói phải, làm hay
1 - Tự giác, quyết liệt, hiệp đồng, sáng tạo sản phẩm
QĐND - Tại thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắc Nông, Tỉnh ủy vừa tổ chức Hội nghị học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng. Chương trình hành động được thông qua, từ nay đến năm 2015, tỉnh tập trung tạo bước đột phá về phát triển nông nghiệp công nghệ cao; phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế và đẩy mạnh thu hút đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng. Chương trình thực hiện tốt các chính sách xã hội, gắn với việc xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới; tăng cường quốc phòng - an ninh, củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc và tiếp tục nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Năm 2010, Đắc Nông đã đạt được những thành tựu, trong đó, đạt tốc độ phát triển kinh tế cao - hơn 15%; tỷ lệ hộ nghèo giảm, còn 10%; thắt chặt đoàn kết trong Đảng, đoàn kết giữa các dân tộc và cộng đồng xã hội. Năm 2011, với khẩu hiệu đề ra là "Tự giác, quyết liệt, hiệp đồng, sáng tạo sản phẩm", Đắc Nông góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.
 |
|
Bí thư Tỉnh ủy Đắc Nông Trần Quốc Huy (giữa) lắng nghe ý kiến của nhân dân địa phương. Ảnh: T.L
|
2 - Khoa học - kỹ thuật "tiếp sức" cho sản xuất
Trong những ngày công tác ở đây, chúng tôi tranh thủ xuống một số huyện, xã, làng, bon, thăm hỏi và tìm hiểu tình hình sản xuất của bà con nông dân. Hiện nay, huyện Đăk Mil được xem là địa phương đi đầu trong toàn tỉnh về việc áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào quá trình sản xuất nông nghiệp. Trong những năm qua, nhiều giống cây, con có năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt, sức đề kháng bệnh cao, đã được huyện đưa vào sử dụng. Việc làm này đã góp phần tăng thu nhập cho người dân, đồng thời, còn là mục tiêu để Đăk Mil tiến tới có nền sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, theo hướng bền vững.
Đăk Mil là vùng có diện tích cây cà phê lớn nhất tỉnh, với hơn 19.000ha, trong đó có đến 6000ha đang bước vào giai đoạn già cỗi, cho năng suất ngày một thấp. Huyện tập trung làm "trẻ hóa" vườn cà phê, đầu tư 200 triệu đồng vào vườn ươm chồi ở các xã: Thuận An, Đăk Lao, Đức Mạnh, thị trấn Đăk Mil. Tiến tới, Đăk Mil sẽ mở rộng, thay thế toàn bộ diện tích cà phê đã già cỗi trên bằng các giống cà phê có năng suất cao, chất lượng tốt.
Gia đình anh Nguyễn Thành Công ở thôn 11B, xã Đăk Lao đã ghép 3,5ha cà phê với nhiều loại giống: TR5, TR6, TR8. Vườn cà phê ghép mới được một năm, nhưng dàn tay của nó rất mạnh, ra bông đều. Hơn nữa, cà phê ghép ít sâu bệnh, sinh trưởng tốt, chi phí đầu tư không nhiều, hạt mẩy. Nhờ đó, mỗi năm, từ vườn cà phê ghép, gia đình anh đã thu hoạch được 6,3 tấn/ha, tăng gấp 2 lần so với giống cũ. Với kết quả cụ thể trên, huyện đang chú trọng việc nhân rộng, thử nghiệm, phát triển các mô hình trồng cà phê ghép, hoa ly, ca cao, mắc ca, hoa lan cắt cành, cây mía tím và rau xanh.
Cùng đó, trong chăn nuôi, các mô hình: Nuôi lợn siêu nạc, nuôi lợn rừng, đà điểu, cá diêu hồng, nhím, ếch Thái Lan... cũng xuất hiện nhiều. Gia đình chị Nguyễn Thị Thành ở thôn 3, xã Đăk N'Drót, có đàn lợn hơn 1000 con, trong đó có 50 con sinh sản. Để đàn lợn phát triển tốt, chị Thành mạnh dạn vay vốn, xây dựng trang trại chăn nuôi, có diện tích 3000m2, chia làm 4 khu vực: Khu lợn nái sinh sản; lợn đẻ nuôi con; lợn con mới tách sữa và khu vực nuôi lợn thương phẩm.
Với một trang trại thoáng đãng, sạch sẽ, quy trình chăn nuôi khoa học nên hằng năm, gia đình chị Thành đều xuất bán hơn 150 tấn lợn hơi. Trừ chi phí, chị còn thu lãi hơn 600 triệu đồng/năm.
Theo ông Nguyễn Nhật Dũng, Phó trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Đăk Mil, để đưa nền nông nghiệp đạt tới trình độ cao và phát triển bền vững thì việc ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất là rất quan trọng. Vì thế, nhằm "tiếp sức" cho nông dân trong trồng trọt, chăn nuôi, huyện đã luôn tạo điều kiện giúp bà con dễ dàng nắm bắt được những tiến bộ khoa học kỹ thuật, áp dụng vào thực tế sản xuất. Đăk Mil đã bỏ ra 5 tỷ đồng, thực hiện Dự án nâng cao năng lực của nông dân, tập trung vào cung cấp kiến thức sản xuất và quản lý tín dụng.
Đề cập đến những mô hình kinh tế, hướng tới nền sản xuất nông nghiệp chất lượng cao, hiện nay, ở tỉnh Đắc Nông có nhiều mô hình, đó là: Cải tạo đàn bò ở huyện Krông Nô; trồng lúa nước và cây mía tím ở huyện Chư Jút; trồng các loại cây ăn quả nổi tiếng ở huyện Đăk Mil; những vườn rau sạch ở huyện Đăk R'Lấp... Nhưng để minh chứng cho sự đổi thay của một tỉnh mới thành lập, không thể không nói tới việc khai hoang, phục hóa, làm thủy lợi, hồi sinh cho những vùng đất "chết".
3 - Những vùng đất hồi sinh
Xã Đăk Drông, huyện Chư Jút mang tiếng là ở trên cao nguyên đất đỏ ba-dan màu mỡ, nhưng địa phương không được hưởng ưu ái đó. Bởi lẽ, đất ở đây bạc màu, gan gà, đầy cát sỏi; chỉ trồng độc canh cây ngô đỏ. Sau này, bà con các dân tộc phát hiện ra quanh hồ Đăk Drông, có một khoảng đất rộng, bằng phẳng. Mọi người rủ nhau đến phát quang, dọn cỏ, trồng lúa nước. Đất sạch đến đâu là sạ giống tới đó. Và thật phấn khởi, cuối vụ cho thu hoạch trên dưới 700kg thóc mỗi sào. Từ đó, bà con các dân tộc M'Nông, Kinh, Tày, Nùng, Mông, Dao, Thái cùng nhau khai phá, be bờ giữ nước làm ruộng. Hiện nay, diện tích trồng lúa nước quanh hồ đã tới 120ha; góp phần chấm dứt nạn đói từng chịu dai dẳng ở địa phương.
Lại nữa, từ bao đời nay, người dân bon Tar Mung, xã Trường Xuân, huyện Đăk Song, sống bên dòng suối Đăk Nhai nhưng không biết làm cách nào để sinh lợi, ngoài việc đi bắt cá, hái rau muống nước. Sự đổi thay bắt đầu từ khi có nguồn vốn Chương trình 135 của Nhà nước, hỗ trợ cho địa phương, xây đập thủy lợi chắn dòng Đăk Nhai, tạo nên hồ chứa nước rộng hàng chục héc-ta và cánh đồng Đăk Nhai màu mỡ.
Ban đầu, việc khai hoang đất đai đối với bà con khó khăn, vất vả lắm; vì nguyên trước đây là con khe sâu, không thể đưa máy móc vào thay sức người được mà phải bằng những đôi tay cùng với tinh thần đoàn kết, nhất trí của mọi người. Ai nấy ra sức chuyển đất lấp khe; đào bới gốc cây, đắp bờ cùng, bờ thửa, tạo nên cánh đồng như hôm nay. Ông Y Wah, dân tộc M'Nông, vừa đào đất be bờ, mồ hôi nhễ nhại, vừa tâm sự với khách: "Trước đây, gia đình chỉ trông vào rẫy sắn và mấy sào cà phê nên quanh năm lo cái ăn cho cả nhà, vất vả lắm. Bây giờ được xã chia cho dăm sào ruộng cấy lúa nước; vụ rồi thu hoạch hơn một tấn thóc, vợ chồng tôi vui lắm! Có lúa trữ trong nhà, gia đình không còn lo chuyện đổi sắn lấy gạo nữa mà tập trung chăm sóc cho các cháu ăn học nên người...".
Bà H'Lai, dân tộc Mạ, trước đây, thường ra ven suối Đăk Nhai hái rau, bắt cua mò ốc. Vừa rồi, bà cũng được nhận ba sào ruộng cấy lúa nước. Nhìn ra thửa ruộng của mình, bà xúc động nói: "Tôi không ngờ rằng, cái khe đầy muỗi vắt trước kia lại có thể cải tạo để cấy lúa được. Vậy mà chỉ mấy tháng sau, cả vùng đất hoang dọc theo con khe đã trở thành đồng ruộng…".
Hiện nay, cái thung lũng mà dòng suối Đăk Nhai chảy qua không còn cỏ dại và rau muống hoang mọc nữa. Bà con bon Tar Mung đã có hồ chứa nước rộng hàng chục héc-ta, đủ tưới cho rau màu, cây công nghiệp quanh năm. Cạnh đó là một cánh đồng trồng lúa nước vừa cuốc xới vài lượt đã mỡ màu. Để chuẩn bị cho vụ đông xuân, địa phương tổ chức mở lớp tập huấn cấy lúa nước cho nông dân và yêu cầu đơn vị cung ứng giống khẩn trương chuyển giống lúa IR64 về bon. Mọi người bảo nhau, vụ này phải làm chắc, ăn chắc để có đà phấn khởi, tiếp tục khai hoang số diện tích còn lại cho năm sau. Bà con sơ tính, đến vụ thu hoạch sẽ đạt dăm sáu tấn một héc-ta và trung bình mỗi gia đình có từ một tấn rưỡi đến hai tấn thóc trong nhà. Vậy là từ nay, nhất là vụ giáp hạt, dân không lo thiếu đói nữa. Đó là ý nghĩa lớn lao, là sức bật của bon Tar Mung.
Ghi chép của CHI PHAN
Kỳ 1: Tình đất, tình người
Kỳ 3: Gương sáng bon làng