Kỳ III: Người S’tiêng cùng bộ đội giữ biên cương
QĐND - “Mùa này Bù Đốp nhiều mưa quá/ Ướt lá cao su, ướt áo em. Mong trời rạng rỡ đầy nắng ấm/ Cho nhựa cao su chảy tháng ngày” – Câu thơ mộc mạc mà anh Điểu Phú ở Đội 3 đọc làm cho tôi cứ ngất ngây nhìn các thiếu nữ xinh đẹp người S’tiêng đang trút mủ cao su vào thùng trong sắc nắng tơ hồng. Trong ngút ngàn màu xanh của cao su, cảnh vật ở đây cứ như mở ra, rạng rỡ hơn...
Làng S’tiêng của bộ đội
Chiều hôm trước, khi tôi xuống Đội 3, Thượng tá Trần Văn Ảnh – Chính ủy Trung đoàn 717 nói rằng: “Cuộc sống của người S’tiêng ở Trung đoàn bây giờ khá lắm rồi. Một số nhà còn mua được cả ô tô đấy. Nhiều người đạt là công nhân cạo mủ giỏi, đạt giải cao trong các cuộc thi của đơn vị”.
Sau gần hai năm mới gặp lại, trông anh Điểu B’lố ở Đội 3, thuộc ấp Tân Phong, xã Tân Thành (Bù Đốp, Bình Phước) có vẻ phong trần hơn trước. Gương mặt sạm màu nắng, hàm răng nhuốm màu khói thuốc và mái tóc của anh điểm bạc nhiều hơn. Khi nói chuyện với tôi, Điểu B’lố nói đâu ra đấy và cười rất tươi. “Điểu B’lố và vợ đã trở thành công nhân cao su của đơn vị rồi. Anh ấy còn là tổ trưởng tổ sản xuất, quản lý gần 40 công nhân đấy” – Thượng úy Trần Văn Biên, Đội trưởng Đội 3 “bật mí”. Cách đây chừng 4 năm, khi tôi gặp Điểu B’lố thì anh mới chỉ là một lao động hợp đồng, nhận chăm sóc vườn cây của Trung đoàn 717. Trong căn nhà “Đại đoàn kết” của anh, chẳng có đồ vật gì đáng tiền. Anh kể: “Mình và 11 hộ gia đình S’tiêng trước đây sống ở đập Cần Đơn. Hồi ấy nhà nào cũng bị đói. Khi Nhà máy thủy điện Cần Đơn được xây dựng năm 2000, người dân được Binh đoàn 16 đưa về đây định cư. Bà con mình sắp hết nghèo rồi. Đây cũng được gọi là: Làng S’tiêng của bộ đội”.
 |
| Bộ đội Trung đoàn 717 hướng dẫn bà con người S’tiêng cạo mủ cao su. |
Bà con người S’tiêng về ấp Tân Phong sắp hết nghèo thật. Không chỉ được đơn vị hỗ trợ về nhà ở, về lương thực và tiền bạc để làm nhà, các hộ dân còn được bộ đội dạy cách chăm sóc cây cao su, được cán bộ Phòng Nông nghiệp huyện hướng dẫn cách cạo mủ và được nhận khoán chăm sóc vườn cây. Trên diện tích gần 1ha đất sản xuất, bà con trồng hồ tiêu, rau xanh, trồng cây ăn trái, phát triển chăn nuôi, đào ao thả cá... Chỉ hai năm sau, thu nhập từ hồ tiêu và chăn nuôi, đời sống của 11 hộ dân đều được cải thiện đáng kể. Có tiền, gia đình Điểu B’lố bỏ hơn 70 triệu đồng để sửa sang nhà cửa, mua sắm bàn ghế, giường tủ mới. Anh còn mua được chiếc xe gắn máy để đi chợ và đi làm vườn. Những nhà khác cũng thi nhau mua sắm ti vi, tủ lạnh, xe gắn máy. 10 năm sau nữa thì Điểu B’lố mua được chiếc máy cày và máy giặt. Đến nay, vợ chồng anh trồng được 360 trụ hồ tiêu và nhận khoán hơn 5ha cao su của trung đoàn. Với tay nghề giỏi, vợ chồng Điểu B’lố có thu nhập gần 15 triệu đồng/tháng từ việc cạo mủ cao su. Năm 2011, Điểu B’lố mạnh dạn mua một chiếc ô tô du lịch để thi thoảng đưa vợ đi TP Hồ Chí Minh, hay Đồng Xoài chơi sau những ngày lao động mệt nhọc. Công nhân trong tổ của Điểu B'lố có cả người S’tiêng và người Kinh, nên công việc khá bận rộn. Mùa cạo mủ, sáng nào anh cũng phải thức dậy từ lúc 3 giờ để giục mọi người đi ra vườn cây. Khá bận rộn, nhưng anh rất vui vì cuộc sống đang ngày càng tốt đẹp hơn.
Khấm khá hơn cả trong khu người S’tiêng ở ấp Tân Phong là gia đình của anh Điểu Phú. Cũng như các gia đình khác, vợ chồng Điểu Phú rất chịu khó làm ăn và tính toán giỏi. Không ngày nào là anh không lên mạng để xem giá cả mủ cao su, giá cả hồ tiêu và các loại nông sản khác. Người trong vùng mệnh danh cho anh là “Nghệ sĩ cạo mủ cao su”. Nhìn Điểu Phú cạo mủ cao su, tôi cứ ngỡ như anh là một nghệ sĩ múa thực sự. Chân trước, chân sau đứng chéo theo hình vòng cung. Cái đầu nghiêng nghiêng như một chú chim đang tìm mồi, để đôi mắt chăm chú vào thân cây cao su. Từ tư thế đó, đôi tay của anh vạch những đường cạo sắc lẹm, mỏng dính như người thợ cắt tóc tài hoa đang cạo mái cho một thiếu nữ xinh đẹp. Từ những đường cạo của anh, dòng nhựa trắng của cây cao su ứa ra, chứa chan, bổi hổi...
Khu dân cư bên dốc Lồ Ô
Những cơn mưa rầm rập do ảnh hưởng của cơn bão số 7, cứ thi nhau trút nước xuống vùng biên giới của hai tỉnh Bình Phước và Tây Ninh với nước bạn Cam-pu-chia. Khung cảnh này làm cho tôi chợt nhớ cách đây hơn 3 năm (tháng 5-2009), tôi đã có cuộc trò chuyện lâu với Đại tá Lê Đức Thọ, Tư lệnh Binh đoàn 16, khi đó anh là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 717. Trong làn mưa nhạt nhòa, người con của quê hương Quảng Ngãi nhìn xa xăm về khu vực dốc Lồ Ô nói: “Ngày mai chúng ta sẽ xuống bàn giao 24 căn nhà “Nghĩa tình quân dân nơi biên giới” cho các hộ dân người S’tiêng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở xã Hưng Phước. Từ nay bà con sẽ không còn phải ở nhà tạm, nhà dột nữa”. Anh Thọ cho biết, 24 căn nhà này được xây dựng từ việc trích quỹ phúc lợi của đơn vị và vận động một số doanh nghiệp tài trợ. Mỗi căn rộng 64m2, có phòng khách, phòng ngủ, nhà bếp, sẽ giúp bà con ổn định cuộc sống lâu dài. Những người đến tuổi lao động sẽ được xét tuyển vào làm công nhân hợp đồng của đơn vị.
... Mưa tạnh. Những chú chim rừng đan cánh bay đón nắng trong vũ điệu líu lo. Cảnh vật thanh bình, náo nức, đầy sức sống, khiến tôi cũng muốn được bay lên cao để được ngắm rừng cao su xanh thẫm, để được thấy vùng đất này đang sinh sôi, nảy nở. Nếu không có lời giới thiệu của cậu lái xe, tôi không thể nhận ra khu dân cư ở dốc Lồ Ô. Mới chỉ cách đây đúng 3 năm 4 tháng, mà 24 căn hộ “Nghĩa tình quân dân nơi biên giới” đã như trở thành phố. Bây giờ khu này không chỉ có 24 căn như trước nữa, mà đã thêm vài căn nữa do con em các gia đình trước đây đã xây dựng gia đình, được địa phương đồng ý cho làm nhà. Gặp tôi, chị Điểu Thị Phúc cứ nắm tay kéo vào nhà: “Cán bộ vào nhà mình chơi đi. Ở khu này giờ nhiều chuyện hay lắm”. Không còn cảnh tuềnh toàng, trống vắng, căn nhà của chị đã được kê một bộ sa-lông mới toanh, ngay trước chiếc ti vi SONY to tướng. Phía trong bếp còn có chiếc tủ lạnh, 2 chiếc xe gắn máy và nhiều đồ dùng sinh hoạt có giá trị. Chị Phúc kể: 24 hộ dân ở Hưng Phước về đây không còn nhà nào bị đói nữa. Mỗi nhà đều có từ 1-3 người làm công nhân ở Trung đoàn 717. Các cháu nhỏ đều được đi học, người ốm đau được đưa đến bệnh xá của trung đoàn khám, chữa bệnh. Những gia đình chịu khó làm ăn là mua được ti vi, xe gắn máy. Ở khu dân cư này, ai cũng nhớ đến Đại tướng Phạm Văn Trà, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong ngày đến cắt băng khánh thành 24 căn nhà “Nghĩa tình quân dân nơi biên giới”. Hôm ấy Đại tướng đã đến bắt tay từng đại diện các hộ dân, chúc mừng họ nhận được giấy chứng nhận cấp nhà. Mọi người không chỉ cảm động khi ông quan tâm, chia sẻ với những khó khăn, vất vả mà họ đang phải trải qua, mà còn cảm động khi biết Đại tướng là người có công rất lớn trong việc kêu gọi các doanh nghiệp ủng hộ tiền để xây dựng khu dân cư này. Nhận quyết định cấp nhà từ tay của Đại tướng, anh Điểu Dên, 52 tuổi đã rơm rớm nước mắt: “Cháu và bà con S’tiêng ở Hưng Phước cảm ơn chú nhiều lắm. Mọi người xin hứa với chú sẽ làm ăn chăm chỉ, cùng bộ đội xây dựng biên cương giàu đẹp để sau này đón chú về thăm”.
Đi dọc tuyến biên giới từ Bù Đốp sang Lộc Ninh, trong ngút ngàn rừng cao su thăm thẳm, nơi đâu tôi cũng bắt gặp niềm hạnh phúc của bà con các dân tộc trong khu dự án KTQP của Binh đoàn 16. Cùng với màu xanh của núi đồi, rừng cây và màu xanh của những người lính Bộ đội Cụ Hồ, người S’tiêng, người Khơ-me, hay người Kinh chung tay, chung sức, để xây dựng nơi đây thành tuyến biên giới hòa bình, hữu nghị, an toàn và phát triển.
Sức bật chốn biên thùy
Sáng hôm chúng tôi trở về TP Hồ Chí Minh, trời Bù Đốp bỗng bừng sáng lên. Ánh nắng len lỏi qua những núi mây, phủ lên cánh rừng cao su một màu xôi vò huyền ảo. Thượng tá Phạm Bá Hiền, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 717 giơ tay vạch một đường từ Đông sang Tây nói: “Chúng tôi đã phát triển cao su dọc theo tuyến biên giới của hai huyện Bù Đốp và Lộc Ninh với nước bạn Cam-pu-chia. Hiện nay, đơn vị có hơn 2000ha cao su đã đưa vào kinh doanh hiệu quả. Năm 2012, trồng mới được thêm 40ha cao su nữa. Chúng tôi cũng vận động được 129 hộ dân tại địa phương tham gia nhận khoán vườn cây, nâng tổng số lên 680 hộ, trong đó có 350 hộ đồng bào dân tộc thiểu số. Đây là một điều kiện thuận lợi để trung đoàn phát triển sản xuất - kinh doanh và góp tạo phên giậu đường biên vững chắc”.
Mưa phía cuối đại ngàn đã ngớt hẳn. Nhưng in vào trong trí óc, khắc vào trong trái tim tôi mãi là hình ảnh thân thương, cảm phục của người lính Binh đoàn 16. Họ đang cùng bà con các dân tộc nơi cuối dãy Trường Sơn này viết lên một bản anh hùng ca rộn rã, ngân nga khắp đất trời, để cho những vùng đất hoang vắng năm xưa phải thức dậy trong khúc khải hoàn hạnh phúc.
Tây Nguyên – TP Hồ Chí Minh, tháng 10-2012
------------
Kỳ I: Ý chí của người Mông
Kỳ II: Những “đại gia” ở Đắk Ngo
Bài và ảnh: Phú Hưng