Kỳ I: Ý chí của người Mông
QĐND - Mùa mưa, con suối Đắk Ngo và Đắk Sin sôi lên sùng sục. Dòng nước đỏ ngầu, cuồn cuộn chảy từ phía biên giới Quảng Trực về, khiến bà con người Mông, Mơ Nông, Tày, Nùng, Mường và người Kinh ở khu dự án kinh tế - quốc phòng Đắk Ngo (Tuy Đức - Đắc Nông) vừa mừng lại vừa lo. Mừng vì mưa sẽ làm cho núi rừng xanh tốt, để vườn cây phát triển nhanh, nhưng cũng lo vì sợ mưa to sẽ gây ra lũ lớn làm sạt lở ruộng nương, nhà cửa...
Quyết tâm thoát nghèo
Trở lại Đắk Ngo lần này, tôi háo hức như một chàng trai Mông vừa làm được cái nhà mới để chuẩn bị đi “bắt vợ”. Gặp anh Ma Seo Vảng, 52 tuổi ở bản Xín Chải, tôi đề nghị ngay: “Anh cho mình theo lên rẫy xem cây cao su đã cao đến đâu rồi nhé”. Người đàn ông Mông cười to: “Cán bộ không sợ đường xa và trơn bẩn à?”. “Mình không sợ. Đồng bào đi được, mình cũng đi được” - Tôi nháy mắt cười. “Được thôi. Để mình rủ thêm già làng Hạng Seo Vảng đi cùng cho vui”. Chỉ ít phút sau, ba chiếc xe máy đã cùng chúng tôi ậm ạch bò trên con đường đất trơn như đổ mỡ. Ngồi phía sau xe, tôi cảm giác như mình có thể văng xuống đường bất cứ lúc nào. Có lúc bánh xe bị trượt đi, làm thân xe chao đảo, tròng trành. Ấy vậy mà Ma Seo Vảng vẫn cứ giữ chặt tay lái, rồ ga tiến về phía trước. Người Mông bây giờ đi xe máy quá giỏi. Vài năm trước đây, chỉ cần đường hơi trơn một chút là chẳng ai dám ngồi lên xe. Nay những chàng trai, cô gái bản Xín Chải, bản Si Át, bản Thống Nhất cứ đi vèo vèo, y như các tay đua có hạng. Ma Seo Vảng nói với tôi: “Người Mông ở Đắk Ngo giờ ít đi bằng chân lắm rồi. Có cái xe, đôi chân của bà con đi lên nương rẫy, đến cái chợ và đến nhà của nhau nhanh hơn. Nhiều người ở bản mình đã thi lấy bằng lái xe máy rồi đấy”.
 |
|
Bà con bản Si Át cùng bộ đội chăm sóc vườn cao su.
|
Khác với những lần gặp trước, lần này già làng Hạng Seo Vảng kể cho tôi nghe nhiều chuyện làm giàu ở bản Xín Chải. Ông nói: “Người Mông mình không cam chịu đói nghèo đâu à. Cái chính là làm sao tìm cách để vườn cà phê sai quả, hạt to, ruộng lúa đạt năng suất cao, vườn điều nhiều trái. Nhưng cái giá cả cũng phức tạp lắm à. Nó lên xuống liên tục, nhiều khi chóng hết cả mặt. Lúc bà con thu hoạch được nhiều nông sản thì nó tụt, còn khi bà con bán hết nó lại lên cao…”. Thật ra, ý chí thoát nghèo của người Mông tôi đã hiểu từ lâu, nhưng bây giờ mới thấy hết được sự quyết tâm trong cuộc sống của đồng bào. Sự quyết tâm ấy có tính toán, suy nghĩ và có cả những điều trăn trở, thao thức bao đêm ngày của những người yêu mến, gắn bó với đại ngàn Tây Nguyên. Ngày còn sống ở các tỉnh Tây Bắc, bà con từng đạp đá nhọn để trồng lúa, tìm nguồn nước trên cao nguyên đá Đồng Văn, kiếm đồng tiền, bát gạo trong giá rét Sa Pa, Bắc Hà. Nay đến sống trên vùng đất khá màu mỡ ở cực Nam của Tây Nguyên, ai cũng tự nhủ phải nhanh chóng thoát khỏi cái nghèo, vươn lên làm giàu mới bõ công phải bỏ mồ mả tổ tiên, bỏ quê hương bản quán mà ra đi.
Cách đây không lâu, cô giáo Mùa Thị Rợ có tâm sự với tôi chuyện bà con người Mông lên mạng tra tài liệu để tìm hiểu kỹ thuật chăm sóc cây cà phê, cây điều và cây cao su. Thật ra, số người ở các bản biết vào internet chỉ khoảng hai chục người, chủ yếu là các em học sinh giỏi cấp 2 và một số “triệu phú”. Nhưng như thế là đã mừng lắm rồi. Ngày mới đến Tây Nguyên, có ai biết cái internet nó thế nào đâu. Ngay cả chiếc ti vi màu, nhiều người nhìn thấy lần đầu đã thốt lên: “Nó bé thế mà thu được cả núi rừng, thành phố vào bên trong. Giỏi quá”. Trước đây, số người Mông biết đọc, biết viết chữ phổ thông chỉ đếm trên đầu ngón tay. Phụ nữ và trẻ con hầu như chẳng biết một câu nói phổ thông nào. Mỗi khi cán bộ của Trung đoàn 720 đến hướng dẫn kỹ thuật trồng và chăm sóc vườn cây, lại phải có người “phiên dịch”. Nhưng dịch ra tiếng Mông cũng chẳng hiểu nhiều lắm, bộ đội phải làm đi, làm lại để bà con bắt chước theo kiểu “cầm tay, chỉ việc” mới quen dần. Tình trạng này khiến già làng của các bản như: Giàng A Lừ, Dương Văn Phông, Hạng Seo Vảng… buồn tê tái. Không biết cái chữ của Bác Hồ, thì bao giờ mới sáng cái đầu, nhanh cái chân, cái tay ra được? Câu hỏi này cứ xoáy khối óc, tràn vào trong tim gan những người có trách nhiệm. Khi bộ đội và chính quyền xây các lớp mẫu giáo, mầm non, rồi trường tiểu học, trung học cơ sở ở Đắk Ngo, các già làng đã đến từng nhà nói với bà con: “Đói nghèo cũng phải cố cho con cái đi học cái chữ. Mù chữ và lười lao động là nghèo suốt đời thôi”. Trong các buổi sinh hoạt tôn giáo, sinh hoạt cộng đồng, những lời “kêu gọi” trên liên tục được nhắc đi, nhắc lại nhiều lần và tạo ra sự lan tỏa trong cả khu dự án thành phong trào học chữ. Nhiều nhà công việc rất bộn bề, nhưng bố mẹ gắng sức làm cố để con có thời gian lên lớp, có thời gian ôn bài, hy vọng cái chữ của Bác Hồ về với nhà mình nhiều hơn, đầy hơn. Trẻ nhỏ thấy vậy, cũng chăm chỉ, quyết tâm học hành tiến bộ.
Biết được nhiều cái chữ, các em nhỏ giúp cha mẹ tra cứu giá cả thị trường trên điện thoại di động, trên internet. Nhiều em còn hướng dẫn được người thân trong gia đình biết nghe dự báo thời tiết nông vụ trên đài truyền hình để vận dụng vào quá trình sản xuất của mình. Đến như chị Thào Thị Chế trước chả biết nói một tiếng phổ thông nào, hỏi cái gì cũng nói “Chư pâu” có nghĩa là “không biết”, nay có thể nhắn tin trên điện thoại di động. Gặp tôi, già làng Giàng A Lừ cười khà khà: “Cứ như thế này, chẳng bao lâu nữa sẽ có những kỹ sư, bác sĩ, cô giáo cấp 2, cấp 3 của người Mông thôi”.
Cao su trên sườn dốc
Cùng đi đến vườn cao su với chúng tôi có Trung úy Nguyễn Đình Vang, Đội phó Đội 8, Trung đoàn 720. Vang được đồng bào quý mến như con em ruột thịt trong gia đình. Dáng vóc có vẻ hơi thư sinh, nhưng bước chân của Vang thì băng băng trên sườn đồi. Anh có thể hướng dẫn bà con kỹ thuật trồng và chăm sóc cây cà phê, cao su, cây điều. Bao nhiêu mùa nắng gió, Vang và đồng đội vẫn trụ vững trên sườn Đắk Ngo này. Có lẽ vì thế mà bà con các dân tộc trong khu dự án KTQP gọi các anh là: Bộ đội của đại ngàn Tây Nguyên xanh. Vang nói với tôi: “Bà con ở đội của em chăm chỉ làm ăn lắm. Nhà này thấy nhà kia trồng lúa, trồng cà phê hay trồng sắn năng suất cao, là suốt ngày suy nghĩ để làm sao được như thế. Nhiều người còn sang tận nhà đó để hỏi kinh nghiệm, kỹ thuật canh tác”. Vang kể cho tôi nghe chuyện anh Sùng Dũng Di hồi mới tới Đắk Ngo còn rất nghèo. Vợ chồng, con cái anh làm quần quật cả ngày mà vẫn bữa no, bữa đói. Ý chí thoát đói nghèo của anh là tận dụng đồi hoang, đất trống để trồng lúa nương, mì (sắn), trồng hoa màu như đỗ, lạc và chăn nuôi thêm gà, lợn. Chỉ sau một năm, gia đình Sùng Dũng Di đã có đủ gạo ăn, lại còn có nguồn thu nho nhỏ từ bán nông sản, gia súc. Hay như gia đình anh Giàng A Páo đông con nhỏ, thiếu đói thường xuyên phải nhờ trợ cấp của Trung đoàn 720. Từ khi anh học được kỹ thuật chăm sóc cây cà phê, cây điều của bộ đội, vườn cây của gia đình năng suất cao hơn hẳn. Không những thế, diện tích giao khoán chăm sóc vườn cây của trung đoàn cũng luôn xanh tốt, sai quả. Những vụ mùa bội thu giúp cho thu nhập của gia đình Giàng A Páo tăng vọt. Vợ con Páo không còn bị đói nữa, mà anh còn làm được một căn nhà to giữa bản, mua được 3 chiếc xe máy, một cái máy xay xát gạo và nhiều đồ dùng sinh hoạt đắt tiền khác…
Mải nói chuyện, chúng tôi bước đến vườn cao su của chị Thào Thị Pa lúc nào không hay. Chao ơi, mới trồng được hơn 2 năm, mà cây cao su đã cao gần bằng 3 cái thân người. Những trận mưa tối qua, làm cho vườn cây càng xanh tươi, đầy sức sống. Anh Ma Seo Vảng cười hiền: “Cán bộ trung đoàn nói nếu sau này cây điều già cỗi, sẽ xin phép Binh đoàn phá bỏ để trồng cây cao su. Nhưng để trở thành công nhân cao su, người Mông, người Mơ Nông hay cả người Kinh ở đây phải đi học nhiều nữa”. Nhìn già làng Hạng Seo Vảng, chị Thào Thị Pa, Mùa Thị Thơ ngẩn ngơ bên những cây cao su, tôi cứ như nhìn thấy loại cây mang lại hiệu quả kinh tế cao đang vươn cao, lan rộng ra khắp núi đồi. Và tôi cũng tin chắc một điều, với ý chí của người Mông, sau này cây cao su, cây cà phê sẽ giúp cho mảnh đất này giàu mạnh, tươi đẹp gấp ngàn lần…
-------------------
Kỳ II: Những “đại gia” ở Đắk Ngo
Bài, ảnh: PHÚ HƯNG