Anh Đậu Kỷ Luật hơi ngả người ra ghế - anh đã vào tuổi thất thập và vừa qua trận ốm nặng viêm phế quản cấp làm bạn bè anh em lo lắng. Đã qua cái thời anh lên diễn đàn nói say sưa, giọng to, tay nắm lại dội mạnh ra phía trước mỗi lần phải giãi bày những điều bức xúc trước sự bất cập vì lịch sử văn hóa. Mấy bác lứa trước anh vẫn đùa là ông “đấm không khí”. Những cái đấm của anh giáng vào sự thiếu hiểu biết về lịch sử văn hóa hoặc hiểu thiên lệch không đến đầu đến đũa. Anh nói chậm rãi:

- Cái ông Brét Toh là một ông giáo, việc đi dạy ở Trường Quốc học Vinh ngốn của ông ta rất nhiều thời gian vậy mà ông ta đã có một sự chuẩn bị kỹ lưỡng để cho ra đời một cuốn sách mở về văn hóa Xứ Nghệ, mà bây giờ chúng ta gọi là Nghệ Tĩnh. Ông ta gọi vùng đất này là An Tĩnh đúng như tên gọi thời cụ Đào Tấn làm Tổng đốc - mà làm Tổng đốc hai lần nên cũng rất hiểu Xứ Nghệ. Nhìn về góc độ văn hóa An - Tĩnh là một. Tức Nghệ Tĩnh ngày nay là một. Tức là bằng cách nhìn nhận tổng quát có một văn hóa Xứ Nghệ nâng đỡ, đón nhận văn hóa xứ Trung Lào. Tôi biết anh Luật là một học giả, một nhà nghiên cứu văn hóa các dân tộc ở miền Tây Nghệ An như văn hóa người Thái ở vùng Quỳ Châu, Quỳ Hợp, người Ơ Đu, đặc biệt là văn hóa người Mẹo (Mèo, Mông) ở vùng Tương Dương, Kỳ Sơn, Nghệ An có quan hệ chặt chẽ với người Mẹo bên Lào.

Anh Luật nói nhỏ:

- Mình nguyên là cán bộ Công an nhân dân vũ trang (Bộ đội biên phòng ngày nay). Đơn vị mình và một số đơn vị khác đã từng cùng với bạn vào Viêng Chăn giải thoát lãnh tụ Xu-va-nu-vông khỏi nhà tù của bọn phái hữu ở Lào, đưa lãnh tụ về căn cứ an toàn. Đã từng đón Tiểu đoàn 2 đang bị quân phái Hữu vây ở cánh đồng Chum, cùng với Tiểu đoàn 2 thoát vây theo đường số 7 về vùng Tây Nghệ An. Anh dừng một lát:

- Ông thầy giáo này đúng khi tán thành việc mở đường Quốc lộ số 7, Quốc lộ số 8 thông thương từ Lào ra biển ở Vinh.

Tôi nhớ thời kỳ Mỹ ngừng ném bom ở miền Bắc nhằm mở rộng chiến tranh ở Lào. Năm 1970, tiểu đoàn tôi (tiểu đoàn 25) đang bảo vệ cảng Gianh (Quảng Bình) đầy ắp chân hàng thì được lệnh gọi về Vinh. Rồi từ Vinh theo đường số 7 sang Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng tham gia chiến dịch Cánh đồng Chum (còn gọi là chiến dịch Cù Kiệt II). Hết chiến dịch lại theo đường số 7 về Vinh. Rồi năm 1972, sau mấy tháng cơ động bảo vệ các cây cầu ở Hà Tĩnh, về chốt giữ phà Linh Cảm, tháng 10 mùa mưa, cả tiểu đoàn nhận lệnh rời Linh Cảm, theo đường số 8 sang giúp bạn trong chiến dịch 972 giải phóng Lạc Xao, Kăm Kớt, Ma Ha Xay đến tận bờ sông Mê Kông. Tiểu đoàn chúng tôi mai táng nhiều đồng đội dọc đường quốc lộ số 8 ở bên kia biên giới rồi theo con đường giống cuống nhau của mẹ (đường Quốc lộ số 8) về với Vinh thân yêu. Cho đến nay tôi hiểu ra những sự kiện ấy, gắn bó với những khoảnh khắc không thể nào quên của đời người, bao giờ và khi nào cũng có nguyên do văn hóa lịch sử của nó.

Anh bạn tôi, nhà nghiên cứu, Giám đốc Thư viện Nghệ An cung cấp cho tôi một số trang tài liệu quý về thành phố Vinh dưới chỉnh thể mới. Tư liệu ghi:

Sau Cách mạng Tháng Tám, ngày 24-1-1946, Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra sắc lệnh số 02: “Cho đến khi có lệnh mới, các thành phố: Nam Định, Vinh - Bến Thủy, Huế, Đà Nẵng đều tạm coi như là thị xã. Các thị xã có thể chia làm nhiều khu, mỗi khu có một Ủy ban hành chính. Các chính quyền nhân dân theo như ở các thành phố, chỉ khác là trong việc kiểm soát tỉnh sẽ thay kỳ và kỳ sẽ thay bằng chính phủ”.

Nghĩa là tạm coi và chờ lệnh mới. Lệnh mới ấy vào ngày 28-1-1961 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam ra nghị quyết 32/ND.BCT về việc quy hoạch, xây dựng Vinh thành một thành phố công nghiệp (sau 15 năm).

Và đến ngày 10-10-1963 (thêm hai năm nữa) Hội đồng Chính phủ ra quyết định: “Thành lập (nhẽ ra phải gọi là tái lập) Thành phố Vinh trực thuộc tỉnh Nghệ An. Thành phố Vinh gồm thị xã Vinh cũ và xóm Trung Nghĩa thuộc xã Hưng Đông, huyện Hưng Nguyên".

Phải mất 36 năm thành phố Vinh - Bến Thủy lùi lại mốc thị xã rồi được công nhận trở lại là thành phố Vinh - thành phố loại III trực thuộc tỉnh Nghệ An. Và phải phấn đấu 20 năm để Vinh được xếp vào thành phố loại II.

14 năm sau kể từ cái mốc thành phố loại II, nhân kỷ niệm 70 năm ngày thành lập thành phố Vinh, Nhà nước Việt Nam long trọng công nhận đô thị Vinh là thành phố loại I.

Anh Luật trầm ngâm:

- Cách chia các đơn vị hành chính của người Pháp chia theo tỉnh, theo huyện, có thể theo xã nữa về cơ bản là đúng, khó thay đổi được bởi vì họ dựa vào văn hóa rồi từ cái văn hóa ấy thành tâm lý vùng. Khi các tỉnh ấy, các vùng văn hóa ấy, cái vùng nhỏ ấy yên vị rồi nó xác lập tâm lý cộng đồng rất bền chắc... Cái ông Brét Toh - một thầy giáo trường Quốc học Vinh nói hộ thành phố Vinh của Bắc miền Trung hắn giúp mối thông thương của Ai Lao (Lào) ra biển, ra đại dương. Hắn là sự gộp lại của Nghi Xuân, Đức Thọ, Hưng Nguyên, Nghi Lộc (Cửa Lò). Tương lai của hắn sẽ là thành phố nối liền với biển, khi ấy Vinh mới hoàn chỉnh. Vinh sẽ như Hải Phòng, như Đà Nẵng… là những ngôi sao thành phố của miền Đông Nam Á và của cả châu Á.

Tôi lục tìm trong mấy tập tài liệu mà người bạn mới của tôi - anh Đào Tam Tỉnh, Giám đốc Thư viện Nghệ An bỏ công sưu tầm, sao chụp gửi cho. Tôi rất sung sướng được ghi vào đây những số liệu này: “Cho đến ngày 8-1-1998, thành phố Vinh có 126 đường phố được đặt tên (đợt I và đợt II). Đợt III hội đồng đặt tên thành phố Vinh đã định danh trực tiếp cho 141 đường phố mới. Tổng cộng cả ba đợt, thành phố Vinh có 267 đường phố được đặt tên. Đặc biệt, sau khi đường 3 tháng 2 hoàn thành nối Vinh với sân bay thì thành phố Vinh đã vươn ra xa và rộng thêm theo hướng Bắc và hướng Đông, nối với khu công nghiệp Bắc Vinh và khu nghỉ mát Cửa Lò, Cửa Hội. Đến nay, thành phố Vinh đã có 17 phường, xã: Quang Trung, Hồng Sơn, Lê Mao, Cửa Nam, Đội Cung, Lê Lợi, Hưng Bình, Hà Huy Tập, Hưng Dũng, Trường Thi, Bến Thủy, Trung Đô, Đông Vĩnh, Hưng Đông, Nghi Phú, Hưng Lộc và Hưng Hòa.

Tôi thấy rất vinh dự được dẫn ra đây một đoạn viết của học giả, nhà văn hóa, nhà văn, Giáo sư Đặng Thai Mai để kết thúc phần viết này: Nếu lấy núi Quyết, thành phố Vinh làm tâm điểm, mở một khẩu độ com-pa, bán kính 20 cây số, quay một vòng tròn thì gần như tất cả các danh nhân Nghệ Tĩnh (cũng là các danh nhân của đất nước) đều trong vòng tròn ấy. Cách 20km về phía Tây có: Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế), Phan Bội Châu, Đặng Thúc Hứa, Hồ Chí Minh. Về phía Nam có Phan Đình Phùng, Trần Phú, Sử Đức Huy, Sử Hy Nhan, Ngô Đức Kế, Hải Thượng Lãn Ông, La Sơn Phu Tử (Nguyễn Thiếp), Xuân Diệu, Huy Cận. Về phía Đông có Nguyễn Xí, Ngư Hải, Phạm Nguyễn Du. Cách đấy 10 km có Phạm Hồng Thái, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Sơn, Nguyễn Biểu, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Trường Tộ v.v..

Một người Pháp, một người thầy, một nhà nghiên cứu đã giúp chúng ta hiểu biết đúng với sự thật lịch sử sự hình thành đô thị từ ba thị xã Vinh, Bến Thủy, Trường Thi đến một thành phố Vinh - Bến Thủy và một vùng địa lý Vinh. Một bậc thầy-Giáo sư, nhà văn Đặng Thai Mai viết về Vinh - Một vùng văn hóa lớn của đất nước dày đặc hiền tài, nhân tài. Và một người, một nhà nghiên cứu văn hóa, một nhà báo, anh Đậu Kỷ Luật luôn trăn trở với Văn hóa Xứ Nghệ, Văn hóa người Vinh.

Còn tôi, một kẻ đến sau, sự hiểu biết còn nông cạn chỉ với lòng yêu của mình viết ra những điều, còn nhiều khiếm khuyết, để gửi tới bạn đọc.

Tháng 04 năm 2009

Đ.T

Bút ký lịch sử của Đại tá-Nhà văn ĐÀO THẮNG

Một vùng Trường Thi-Bến Thủy (Kỳ 1)

Một vùng Trường Thi-Bến Thủy (Kỳ 2)

Một vùng Trường Thi-Bến Thủy (Kỳ 3)

Một vùng Trường Thi-Bến Thủy (Kỳ 4)

Một vùng Trường Thi-Bến Thủy (Kỳ 5)