 |
“Nhằm thẳng quân thù mà bắn!”. Ảnh: Phan Xuyến Thanh Đồng
|
Phà hai lần anh hùng và những người anh hùng
Có một thống kê mà bất cứ ai đã từng sống ở Vinh-Bến Thủy dù chỉ là đi qua phà Bến Thủy thời kỳ chiến tranh chống Mỹ đều không thể bỏ qua: Từ năm 1965 đến năm 1968, trong 2.912 trận oanh kích của máy bay và pháo biển, phà Bến Thủy đã phải hứng chịu 11.377 quả rốc-két, bom, pháo các loại. Đặc biệt, trong 9 tháng năm 1972, trong 317 trận đã có 13.253 quả bom, pháo giội vào “Yết hầu lửa Bến Thủy”. Những con số đó đã nói với ta điều gì? Số trận đánh ít vì một năm so với bốn năm, số bom, rốc-két, đạn pháo nhiều hơn, nghĩa là mức độ khốc liệt của từng trận đánh vượt trội. Tôi nhớ một chuyện lạ với đám lính chiến ở trận địa chúng tôi. Ở hầm chỉ huy của Đại đội trưởng bao giờ cũng có cái kẻng báo động chiến đấu. Nếu là thanh tà vẹt đường tàu hoặc một khúc sắt thường, khi gõ báo động (ba tiếng một kiểu ngũ liên) con chó của bộ phận chỉ huy nuôi, chạy từ lán ra ngó nghiêng. Nếu là vỏ quả bom nhỏ treo làm kẻng, gõ lên nó tru lên từng hồi, đuôi cúp xuống sợ hãi, chui vào hầm. Thời Giôn-xơn đánh bom (Tổng thống Mỹ Giôn-xơn ra lệnh ném bom miền Bắc lần thứ nhất), con chó lần nào cũng có biểu hiện như vậy. Song, thời Tổng thống Ních-xơn ra lệnh ném bom lần thứ hai, chỉ sau mấy trận đánh, khi gõ cái kẻng một hồi, con chó tru lên một tiếng, lao sâu vào hầm, nằm sấp xuống, mặt ngẩng lên, mồm há ra, đôi mắt thất thần đầy sợ hãi. Thế mới biết cái bản năng sống ở loài vật tinh khôn và con người nó ẩn chứa trong cái vỏ bọc thịt xương mạnh mẽ đến nhường nào.
Chúng tôi vẫn nói với nhau: “Ních-xơn đánh khác hẳn Giôn-xơn” (nói tắt như vậy vì quyền lực chiến tranh ở Mỹ tập trung tối thượng ở Tổng thống). Giôn-xơn đánh leo thang miền Bắc. Leo thang từng nấc thì lại dừng lại nắn gân Bắc Việt. Lối đánh này gặp cộng đồng yếu bóng vía thì có vẻ lợi thế, nhưng khi gặp Việt Nam - một dân tộc kiên cường đã từng đánh thắng nhiều kẻ xâm lăng bá quyền thì hóa ra hạ sách, đối phương nắm được “thóp” chuẩn bị lực lượng quật cho những đòn chí mạng. Ních-xơn rút kinh nghiệm đánh khốc liệt ngay từ đầu, chơi những đòn “nhẩy cóc” cực kỳ nguy hiểm. Đêm 6-4-1972, đại đội tôi nhận lệnh rời núi Quyết cơ động bảo vệ cầu Họ, cầu Phủ, cầu Cầy, cầu Nghèn, cầu Gia (Hà Tĩnh) khi cuộc ném bom lần thứ hai mới bắt đầu ít ngày. Đêm 10-4-1972, Mỹ cho máy bay chiến lược B52 ném bom rải thảm Vinh-Bến Thủy.
Vào lúc 2 giờ 55 phút ngày 10-4, trong lúc người dân đang yên giấc, Mỹ đã huy động 55 lần chiếc máy bay trong đó có 9 máy bay B52 bất ngờ ném bom Vinh - Bến Thủy. 9 pháo đài bay khổng lồ B52 chia làm 3 tốp, cách 2 phút một tốp, ném bom rải thảm, ném bom dày đặc xuống một vùng dài gần sáu cây số, rộng gần một cây số. Bom trùm lên các xã Hưng Hòa, Hưng Đông, Nghi Phú, Khu phố 5 (tức phường Bến Thủy và Trung Đô hiện nay) và phà Bến Thủy. Mật độ bom dày đặc, mỗi quả cách nhau từ 5 đến 10 mét, gây thương vong nặng nề, hơn 200 dân thường bị trúng bom, trong đó 85 người chết, 109 người bị thương. Xã Hưng Hòa có 46 người chết. Ở xóm Phong Khánh, nhà ông Chắt Ninh có 8 người bị bom hất xuống ao chết cả. Nhà ông Thập, có một mẹ, hai vợ chồng và ba con bị chết. Nhà ông Hồ Phúc có năm người thì chết bốn...
Đến ngày 5-5-1972, Thành ủy Vinh ra Nghị quyết số 3 có đoạn: "Đêm ngày 10-4-1972, địch đã dùng tới 63 lần chiếc máy bay chiến đấu trong đó có 9 máy bay B52 ào ạt bất ngờ đánh 14 điểm, từ đó đánh liên tục có tính hủy diệt. Địch đã đánh 550 trận (tính từ ngày 10-4 đến ngày 5-5-1972) bằng máy bay, trong đó có 6 trận bằng máy bay chiến lược B52 và 16 trận pháo kích từ ngoài biển vào, ném 10.000 tấn bom đạn, bình quân mỗi ki-lô-mét vuông gần 200 tấn, mỗi người gánh chịu 340kg thuốc nổ-tính đến thời điểm đó).
...Anh Nguyễn Đăng Chế (Trưởng phà Bến Thủy trong mười năm) đi phăm phăm phía trước tôi rồi dừng lại bên đống cát lớn, trước đây là đầu bến phà I quay lại nói:
- Năm 1972 mình đã là thủ trưởng phà Bến Thủy được ba năm.
Nguyễn Đăng Chế về nhận chức thủ trưởng bến phà từ đầu năm 1969. Anh lúc nào cũng đeo băng đỏ có dòng chữ Trưởng phà nơi cánh tay, cao to, vững chãi như nhà chỉ huy quân sự, mà quân sự thật. Anh em công nhân phà vốn từ bộ đội chuyển sang. Phải hồi tưởng lại mới thấy hết được vị trí của anh lúc đó quan trọng và trách nhiệm nặng nề đến mức nào. “Tháng 11-1965, Ban Bí ThưTrung ương Đảng và Chính phủ quyết định chuyển nhiệm vụ vượt sông (phà Bến Thủy) từ Bộ Giao thông-Vận tải sang cho ngành quân sự đảm nhiệm. Phà Bến Thủy 9 người bảo đảm một chuyến phà qua sông mất 40 phút; Công binh Bến Thủy giảm xuống chỉ còn 6 người với thời gian từ 10 đến 15 phút (một chuyến) với sáng kiến chỉ quay ca nô không quay phà khi phà rời bến”.
Nguyễn Đăng Chế đăm chiêu: Đơn vị gọi là công binh Bến Thủy, đó thực chất gồm 3 đại đội: Đại đội pháo binh Hoàng Mai, Đại đội pháo binh Nam Đàn và Đại đội công binh Bến Thủy.
Nguyễn Đăng Chế nói, giọng chậm rãi chắc nịch:
Ngày 1-11-1968, Mỹ buộc phải ngừng cuộc ném bom chưa từng có. Cuối năm 1968 phà Bến Thủy được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân do thành tích nổi bật qua bốn năm chiến đấu anh dũng, kiên cường và sự hy sinh không bờ bến, tinh thần sáng tạo và ý chí vượt lên cái chết trước đạn bom khổng lồ của nước Mỹ siêu cường. Mình về nhận nhiệm vụ trưởng phà vào đúng thời kỳ này. Một đảng viên trẻ, mới hai bảy tuổi đời, có một ít thành tích về rà phá bom nổ chậm, bom từ trường trên các tuyến giao thông trong tỉnh như: Truông Bồn, Rú Trét và sông Lam. Lo lắm chứ ạ! Một tập thể kiên cường giàu thành tích nhưthế, ba đại đội lính gạo cội phải có một người cỡ tiểu đoàn trưởng dày dạn đứng đầu. Mình còn trẻ quá chăng, còn “non” chăng? Nhưng nghĩ lại cái việc sông nước giơ đầu ra hứng đạn bom, cưỡi lên bom này không trẻ chắc gì kham nổi. Và trách nhiệm bám trụ con sông lửa, hai bờ lửa này của một đảng viên thì không có quyền so đo, lùi bước". Anh cười, giọng còn vang sông nước: "Mình cao to, đi đứng vững chắc, đĩnh đạc, không sợ, không lùi bước trước cái chết đe dọa từng giây từng phút vì những chuyến phà trong đêm, dần dần anh em tin phục".
Chúng tôi lội trong cỏ tốt ngợp tìm lại lối vào lại dấu tích “ngôi nhà vĩ đại” bên trong núi Quyết. Anh Chế đứng lại chỉ tay vào chân núi trập trùng đá đen:
- Chú là lính, lại là lính ở Bến Thủy này, lại là đồng đội hộ mạng cho chúng tôi, chú biết. Anh em phà tuy đã chuyển sang giao thông quản lý nhưng vẫn phải sinh hoạt, làm việc rất nghiêm ngặt theo chế độ người lính. Hơn ba trăm con người, ban đêm chia làm hai kíp việc vận hành phà từ 20 giờ đêm đến 5 giờ sáng. Một tổng đài được đặt trong núi Quyết nối với trạm điện thoại đặt ở ngoài đầu bến. Tổng đài liên lạc được thẳng với Bộ Giao thông-Vận tải, liên lạc thẳng với các ban, ngành tỉnh Nghệ An và thành phố Vinh. Đặc biệt, từ tổng đài núi Quyết gọi thẳng được cho Trung đoàn pháo cao xạ 233 (Đoàn Đống Đa) vào các năm ác liệt nhất năm 1968 và 1972. Nội dung liên lạc xoay quanh: Tắc phà hay thông, giải quyết thương binh tử sĩ, thông báo khu vực bom nổ chậm, bom từ trường máy bay Mỹ vừa thả xuống, yêu cầu chi viện, giúp đỡ về đời sống, lời động viên, một vài thùng lương khô, bột trứng ca la thầu...
Từ lâu trong lòng núi Quyết đã như một thành phố hầm thu nhỏ, nhiều ngóc ngách, nhiều loại hầm nối thông với nhau. Núi Quyết trở thành “ngôi nhà vĩ đại” của anh em công nhân phà và của nhiều lực lượng khác: Kho, công binh, đài quan sát, nơi trú ẩn của nhân dân Khu phố 5 (xã Hưng Thủy, Vĩnh Tân) khi máy bay Mỹ mở các chiến dịch đánh phá quá ác liệt, hoặc có thông báo máy bay B52 ném bom ban đêm năm 1972. Có thể nói, núi Quyết là địa đạo nổi của Vinh-Bến Thủy còn ẩn chứa rất nhiều câu chuyện bi hùng và lãng mạn đẹp đẽ thời chiến tranh khốc liệt, với ranh giới giữa sự sống và cái chết thật mong manh, cái chết không chỉ đe dọa hằng đêm, hằng ngày mà từng phút, từng giây.
Đối với chúng tôi, những chàng lính pháo bám chốt đã vậy, các anh còn hứng chịu nhiều nguy hiểm hơn, bởi các anh không có vũ khí đánh lại hàng tấn vũ khí nguy hiểm nhất ở thời điểm đó. Các anh chỉ có sự can trường, ý chí của người chiến sĩ sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc đã thắng cái bản năng sợ hãi có ở muôn loài và sự tinh nhậy phi thường được rèn rũa mà anh em vẫn gọi là “giác quan thứ sáu”. Chính tôi cũng được anh em trong trận địa tặng cho cái giác quan linh cảm đó-chỉ sau này bạn tôi, khi đó là khẩu đội trưởng pháo đã thành tiểu đoàn trưởng, nói lại tôi mới biết.
Nguyễn Đăng Chế nói giọng hơi trầm:
- 9 người trên một chuyến phà chịu trách nhiệm trước sinh mệnh mình và một trách nhiệm nặng nề trước tài sản to lớn của nhân dân, của quân đội, của Đảng, Nhà nước giao: Hàng nghìn chiếc xe chở đạn, gạo, thực phẩm, áo bạt, lán bạt, cả hàng nghìn áo ni-lông liệm tử sĩ cho chiến trường. Một chuyến phà qua sông Bến Thủy rộng 600 mét đi và về hai chiều chậm nhất là 12 phút. Một phà chở được 6 xe vận tải nặng-có đêm huy động 4 ca-nô, kéo hai phà ghép lại với nhau chở được 12 xe. Chạy phà liên tục, các anh em công nhân sẵn sàng chờ thay phiên nhau, bổ sung người bị thương, hi sinh giống như bộ binh đánh công kiên, nằm ở cửa mở vào đồn địch. Mỗi đêm tính ra gần 1000 xe qua trọng điểm số 1 Bến Thủy. Sáng ra ướt át, mệt nhừ người, anh em chúng tôi giống như một bầy chuột nước (về ngoại hình), theo đường hào giao thông về “căn nhà vĩ đại”. Số được ngủ bù, số đông cầm xẻng đào hào sâu hơn, mở rộng hơn, một số củng cố và đào tiếp đường hầm trong núi. Anh Chế chỉ huy, đeo băng đỏ trưởng phà. Và anh Chế cũng giống như anh em, tự đặt phản gỗ, không cần trải chiếu, nằm xuống tự căng lại ni-lông che nước nhỏ giọt rồi tự tay lấy mỳ bột trộn nước nắm lại, gói lá chuối rồi cho vào bếp nướng. Với ông trưởng phà lo nhất là tắc phà, ùn xe; ngán nhất là pháo ngoài biển bất ngờ câu tới, pháo cỡ đại nhằm thẳng vào anh em và mình, sức nổ ngang một quả bom, nổ rồi mới nghe tiếng, sau đó mới đến bom, rốc-két, tên lửa từ tàu bay thả xuống.
Bút ký lịch sử của Đại tá-Nhà văn Đào Thắng
Một vùng Trường Thi-Bến Thủy (kỳ 3)
Một vùng Trường Thi-Bến Thủy (kỳ 2)
Một vùng Trường Thi-Bến Thủy (kỳ 1)
(còn nữa)