… Lịch sử tỉnh Nghệ An và Lịch sử chiến đấu thành phố Vinh đã ghi lại những trang hào hùng. Ngày 2-3-1964, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An ra chỉ thị khẩn cấp về công tác phòng không nhân dân và thủ đoạn biệt kích tập kích của địch. Tiếp theo, ngày 27-2-1965, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An đã ra nghị quyết số 05 về “Tăng cường công tác tư tưởng và tổ chức chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống”. Thực hiện chỉ thị 05 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An, Thành ủy Vinh đã thông qua phương án hiệp đồng chiến đấu giữa các lực lượng vũ trang đóng trên địa bàn. Lúc này, ông Lê Vân - Bí thư Thành ủy được Trung ương điều về công tác tại Hà Nội. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An đã cử ông Nguyễn Sỹ Hòa, Ủy viên thường vụ Tỉnh ủy về trực tiếp làm Bí thư Thành ủy Vinh. Bước vào cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ thành phố đã xây dựng 16 đài quan sát máy bay, 23 điểm báo động, 92 trận địa pháo các loại, đào đắp hàng vạn mét khối đất đá, xây dựng công sự, ụ pháo, 23.272 hầm trú ẩn; thành lập 20 đội rà phá bom mìn, 18 đội ứng cứu giao thông, 173 đội cấp cứu, tải thương, các tổ bảo vệ trật tự an ninh ở khu phố và thôn xóm.

Xác chiếc máy bay Mỹ mật danh “Thập tự chinh” bị trung đoàn 214 bắn rơi tại chỗ tại thành phố Vinh ngày 27-5-1965. Đây là chiếc máy bay Mỹ thứ 300 bị hạ trên vùng trời miền Bắc kể từ 5-8-1964.

Trận đánh máy bay Mỹ đầu tiên giữa trưa ngày 5-8-1964 nắng nóng, ngay từ phút đầu tiên máy bay Mỹ ném bom kho xăng Hưng Hòa. Tất cả các lực lượng đã chuẩn bị được lệnh huy động mọi phương tiện chữa cháy. Công nhân viên chức lao vào kho xăng cùng với dân quân Hưng Dũng, Hưng Thủy, công nhân nhà máy điện Vinh, nhà máy ép dầu, công ty vận tải ô tô hàng hóa, đội cơ giới xe cần cẩu, trường công nhân kỹ thuật 3, sinh viên Trường Đại học Vinh... đã di chuyển 1.200 tấn xăng ở các bồn chứa lớn, 6.000 phuy xăng, dầu các loại, 50 bể chứa nhỏ và 1.000 tấn thiết bị kỹ thuật hàng hóa các loại ra khỏi thành phố.

Có một kết luận có tính chất lịch sử về đặc điểm của bốn năm chống trả cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ trên địa bàn thành phố Vinh là: Địch ngày càng leo thang đánh phá với mục tiêu ngày càng rộng, khối lượng bom đạn ngày càng lớn. Năm 1968 là năm chiến tranh diễn ra rất ác liệt. Quân và dân thành phố Vinh được sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ, có sự lãnh đạo sát sao của Tỉnh ủy, Ủy ban Hành chính tỉnh và Bộ Tư lệnh Quân khu Bốn, càng đánh càng có kinh nghiệm, quyết tâm ngày càng cao, chiến thắng ngày càng lớn.

Ngày 15-3-1965, 22 lần chiếc máy bay đánh vào cảng Bến Thủy. Ngày 30-3-1965, 250 lần chiếc đánh phá sân bay Vinh. Ngày 20-4-1965, lúc 20 giờ 15 phút, trung đoàn 280 (đoàn Hồng Lĩnh) bắn rơi tại chỗ một chiếc A4D, bắt sống giặc lái.

Vào các ngày: 1, 4, 7, 8, 9, 16, 17, 21, 25, 27, 28 tháng 5 năm 1965, địch dồn dập đánh thành phố Vinh. Ngày 17-5-1965, vào lúc 11 giờ 52 phút, địch bắt đầu dùng tên lửa Srai-đơ (Rắn đuôi kêu) đánh vào thành phố Vinh.

Ngày 10-5-1965, Tỉnh ủy lập ban chỉ đạo sơ tán và ngày 12-5-1965, Ủy ban Hành chính phát lệnh sơ tán những điểm tập trung kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn cả tỉnh và thành phố Vinh là trọng điểm quan trọng nhất.

Trong hai tháng 5 và 6-1965 đã di chuyển ra khỏi thành phố 60.000 tấn hàng hóa, phương tiện, máy móc, thiết bị kỹ thuật; hơn 5.012 hộ gia đình công nhân viên chức gồm 30.000 người được tổ chức sơ tán khỏi thành phố. Các cơ quan đầu não của tỉnh cũng rời khỏi Vinh. Cơ quan Thành ủy tiếp nhận cơ sở của Ủy ban Giám sát quốc tế, xây dựng hầm, bếp, điện đài và làm việc tại đây.

Quân và dân thành phố Vinh đã dũng cảm đánh trả máy bay địch. Trong tháng 5-1965, đã hạ 17 máy bay Mỹ. Đặc biệt vào lúc 7 giờ 10 phút ngày 27-5-1965, đại đội 5 pháo 57 ly trung đoàn 214 bắn rơi tại chỗ chiếc F8U. Máy bay cắm đầu xuống cách ga Vinh không quá 300m. Tên trung tá Dớc-lin bị chết. Đây là chiếc máy bay Mỹ thứ 300 bị bắn rơi trên miền Bắc kể từ trận đầu ngày 5-8-1964. Máy bay Mỹ tiếp tục đánh phá Vinh bằng những thủ đoạn dã man, tàn bạo. Đêm ngày 4-4-1965, máy bay địch ập vào đánh bom, bắn và bổ nhào từ ba hướng, trút bom vào khu nhà chính Nhà máy điện Vinh. Nhà máy chính đã được che chắn bởi các bức tường bảo vệ do công nhân xây dựng nhưng trong bão lửa bom đạn, các bức tường bị phá hỏng. Dù vậy anh chị em công nhân đã dũng cảm, bình tĩnh, thao tác chính xác ngừng các lò máy an toàn như phương án đã luyện tập. Máy bay địch tiếp tục đánh nhà máy lần thứ hai với nhiều loại bom đạn sát thương, bom bi, bom phá nhằm giết chết công nhân và hủy hoại nhà máy. Nhiều công nhân nhà máy điện Vinh đã hi sinh trong trận bom đạn huỷ diệt này: Trần Văn Qua, Nguyễn Văn Tý, Lê Thị Hòa, Đỗ Ngọc Sinh, Nguyễn Khánh Toàn, Phan Văn Duyệt, Trần Văn Dân, Bửu Quang... Vượt qua hi sinh, ác liệt, nêu cao ý chí kiên cường bám trụ, sau 25 tiếng đồng hồ sửa chữa máy, nối lại đường dây nhà máy điện Vinh lại vận hành. Sau thời gian một ngày dòng điện bị ngắt, điện thành phố lại bật sáng, còi báo động lại vang lên.

Công nhân Nhà máy điện Vinh thành lập tiểu đoàn cảm tử bảo vệ núi Quyết. Hàng trăm công nhân Nhà máy điện, Nhà máy gỗ, dân quân Khu phố 5 (nay là phường Trung Đô) kề vai sát cánh cùng bộ đội pháo cao xạ kéo pháo lên đỉnh cao núi Quyết. Một lực lượng công binh, công nhân do Quân khu và tỉnh chỉ đạo đã ngày đêm đào núi khoét hầm biến núi Quyết thành lũy thép. Vừa là bầu đỡ cho các trận địa pháo trên núi, vừa che chắn các tuyến… phát điện, kho chứa vũ khí đạn dược để có thể đánh Mỹ 5 năm, 10 năm.

9 giờ sáng ngày 7-6-1965, máy bay địch đánh vào trung tâm thành phố với 42 lần chiếc, ném 431 quả bom, bắn 37 loạt rốc-két vào khu phố 4 (khu phố Lê Mao hiện nay) phá hỏng trường cấp I, cấp II và 87 ngôi nhà, giết chết 37 người dân. Chúng đánh vào cơ quan Thành ủy. 12 giờ đêm ngày 7-6-1965, đau thương không bao giờ quên, Thành ủy và một số ban, ngành của thành phố chuyển về thôn Phong Toàn (nay là phía đông phường Hà Huy Tập)-một địa điểm đã được chuẩn bị trước. Từ đây, Phong Toàn, Yên Mỹ sẽ là căn cứ kháng chiến chống Mỹ suốt 8 năm (1965 - 1973).

Từ căn cứ địa Phong Toàn, Yên Mỹ, Thành ủy và Ủy ban Hành chính Thành phố đã lãnh đạo quân và dân bám trụ, chiến đấu, phục vụ chiến đấu, bảo vệ và bảo đảm an toàn giao thông vận tải, đẩy mạnh sản xuất bảo đảm cho đời sống của nhân dân.

Phát huy kỳ tích chiến đấu tháng 5, từ ngày 30-7 đến ngày 9-8-1965, quân và dân thành phố Vinh đã hạ được 11 máy bay Mỹ. Trung đoàn 214 bắn rơi chiếc máy bay tròn 100 máy bay Mỹ bị bắn rơi tại thành phố Vinh. Với chiến công là địa phương đầu tiên trên miền Bắc bắn rơi 100 máy bay Mỹ ngày 14-9-1965, quân và dân thành phố Vinh vui mừng đón thư khen của Bác Hồ. Bác khen: “Vinh là thành phố đầu tiên đã bắn rơi 100 máy bay Mỹ. Đó là một thắng lợi quang vinh...”. “Quân dân thành phố Vinh còn làm tốt công tác phòng không nhân dân, ra sức khắc phục khó khăn, thi đua sản xuất...”. Bác căn dặn: “Cần luôn luôn phát huy truyền thống Xô viết Nghệ - Tĩnh anh hùng, nêu cao quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, hăng hái thi đua chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi, lập nhiều thành tích to lớn hơn nữa”.

Bước vào năm 1968, sau cuộc tập kích chiến lược của quân dân chiến trường miền Nam, ngày 31-3, Mỹ tuyên bố ném bom hạn chế miền Bắc. Sự thực thì Mỹ tập trung toàn bộ máy bay, tàu chiến bắn phá miền Bắc và đánh hủy diệt miền Trung (chúng gọi là vùng cán soong) nhằm cắt đứt sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam trên dải đất hẹp xung yếu nhất là tuyến lửa khu Bốn.

Ở thành phố Vinh, chúng đánh phá có tính chất hủy diệt từng vùng, đánh dứt điểm, từng mục tiêu, từng đoạn đường, khúc sông với âm mưu đánh diệt giao thông, vận tải, kết hợp quét sạch chân hàng, dân cư thành khu vực trắng.

Số lượng bom đạn Mỹ giội xuống thành phố trong năm 1968 bằng cả khối lượng bom đạn trong ba năm trước cộng lại. Máy bay địch đã bay và vào đánh phá thành phố 1.649 lần tốp với 15.400 lần chiếc. Tăng 2,5 lần so với năm 1967. Máy bay địch đánh 301 trận vào ban đêm. Ba lần dùng pháo hạm siêu nặng 406.7 ly từ tàu Niu Ghơ-đi - một con tầu tuần dương ngoại cỡ do Mỹ sản xuất và sử dụng ít lần trong chiến tranh thế giới lần thứ hai. Tháng 8-1968, máy bay Mỹ đánh suốt 29 ngày đêm. Có ngày đánh tới 17 trận, có đêm 27 trận.

Máy bay Mỹ đã ném xuống thành phố Vinh hàng chục nghìn quả bom các loại. Theo tính toán, trung bình mỗi người dân ở lại thành phố Vinh phải gánh chịu hai tấn bom đạn. Bom đạn ngày đêm nổ chát chúa, rung rền át đi tất cả các tiếng động khác, ngỡ như không khi nào ngừng, không biết bao giờ tắt. Đêm đêm ánh pháo sáng gắt gao không cho thành phố một phút ngủ yên. Tất cả các đường phố, các thôn xóm đều bị mảnh bom, pháo băm vằn. Ác liệt nhất là vùng Bến Thủy. Từ đầu tháng 4 đến tháng 10-1968, chúng đánh Bến Thủy 257 trận (chưa kể những chiếc đánh lẻ ban ngày và ban đêm).

Trong năm 1968 địch đã gây ra những thiệt hại to lớn: 249 người chết, 409 người bị thương (chưa kể quân số thương vong của lực lượng vũ trang). 749 ngôi nhà cửa bị cháy sập (tăng gấp ba lần năm 1967), giết chết 106 trâu bò, 75 mẫu ruộng có lúa hoa mầu, bom trúng đê sông Lam 13 lần.

Để hạn chế thương vong, đầu năm 1968 đã diễn ra một cuộc sơ tán lớn chưa từng có, tất cả những người không trực tiếp chiến đấu, phục vụ chiến đấu đều phải đi sơ tán. Chỉ có học sinh cấp II ở lại. Học sinh cấp III và cấp I sơ tán lên vùng núi Nghĩa Đàn và Thanh Chương. Hàng ngàn con em xa gia đình, vượt hàng trăm cây số lên vùng núi xa xôi đặt ra biết bao khó khăn nhưng do tích lũy được kinh nghiệm từ những năm trước nên đã bảo đảm an toàn cho các em, các cháu, bảo đảm được học hành và những yêu cầu thiết yếu nhất của đời sống. Có thể nói người Vinh đã đưa cuộc sống vào trong hầm. Làm hầm nới sơ tán, người ở lại thành phố sống chết từng giờ, từng khắc với căn hầm chữ A hay còn gọi là hầm Triều Tiên, hầm hai mái. Dỡ cả những ngôi nhà được tổ tiên để lại từ nhiều đời để làm hầm. Hầm nằm ngủ, hầm học cho con cái, hầm cất giữ tài sản, hầm bảo vệ máy móc, đào hầm kín lưng cho trâu bò đứng, nằm ngủ.

Tính bình quân mỗi hộ có 2,2 hầm chữ A, cả thành phố trong năm 1968 làm thêm 5.147 hầm chữ A. Hệ thống hào giao thông được xây dựng chằng chịt từ nhà này sang nhà khác, nối các xóm lại với nhau. Trên các trục đường xung yếu dọc các giao thông hào cứ cách 30 đến 40 mét lại có một căn hầm chữ A.

Trải qua những năm tháng chiến tranh vô cùng gian khổ, ác liệt, thành phố đổ nát hoàn toàn. Một nhà văn đã gọi Vinh là thành phố “Trụi”. Một đống đổ nát khổng lồ nhưng con người Vinh vẫn hiên ngang đứng vững, có ngã xuống lại vùng đứng dậy, nhất quyết không để đạn bom kẻ thù đè nát. Chúng ta sẽ còn gặp lại phí phách của người Vinh trong những lúc cận kề cái chết và cả trong khi bắt tay xây dựng thời bình.

Bút ký lịch sử của Đại tá-Nhà văn Đào Thắng
Một vùng Trường Thi-Bến Thủy (kỳ 2)
Một vùng Trường Thi-Bến Thủy (kỳ 1)