 |
|
Sinh viên Đại học Lê Thái Hòa, chiến sĩ mới Đại đội 1, Trung đoàn 214 pháo cao xạ Quân khu 4 vừa huấn luyện các khoa mục bộ binh giỏi, vừa pháo thủ số 5 thành thạo (nay là Bí thư huyện ủy Hưng Nguyên, Nghệ An).
|
Tôi chỉ chiếc ba lô lính và chiếc cặp nhỏ. Ba lô để đựng quần áo, cặp để giấy sách. Giấy, sách, bút, cho lẫn vào quần áo sợ không thanh sạch, đi xa kiểu dã chiến sợ nhàu nát chữ.
Vẫn giọng Vinh chuẩn và ấm anh bạn lại hỏi:
- Chú xuống ga mô?
- Chú về Vinh!
- Ồ cháu cũng về Vinh chú ạ. Bố cháu quê Thái Bình, ngày chiến tranh chiến đấu ở Vinh. Hết chiến tranh chỉ huy đơn vị làm đường mắc lỗi gì đó bị giáng cấp, giáng chức. Bố cháu bảo là "chỉ Vinh mới chứng minh được sự trong sạch, trong sáng của tôi". Thế là bố cháu xây dựng với mẹ cháu người Vinh rồi ở lại Vinh luôn. Cháu là người Vinh thế hệ thứ hai đấy chú ạ.
- Ừ, chú biết Vinh có nhiều gia đình mang nghề từ Nam Định vô như thợ xây, thợ mộc, thợ làm gương kính. Còn công nhân công nghiệp ở Nhà máy xe lửa Trường Thi, Nhà máy gỗ, Nhà máy diêm Bến Thủy trước đây thì từ Đức Thọ sang, Hưng Nguyên, Đô Lương xuống, từ Bắc vô. Vinh chứa đựng những đặc tính văn hóa tiêu biểu của xứ Nghệ và Vinh cũng mở lòng đón những tinh hoa của nhiều miền đất nước. Tôi nhìn chàng trai trẻ náo nức về với gia đình nhỏ ở Vinh. Còn tôi, tôi gắn bó với một tình yêu rộng lớn. Tôi có một chút cô đơn, bởi tôi chưa từng có một sự gắn bó riêng tư nào đúng nghĩa ở nơi thân yêu đáng kính trọng này. Các bạn tôi phần đông là dân Nghệ và cả dân “Bắc Kỳ” đã lầm tưởng tôi phải có một cái gì đấy ruột rà, cái gì đấy bí mật để hễ hở ra một chút, một ngày là “nó” tìm cách về Vinh. Có một cái gì đó thật bí ẩn chứ không phải bí mật ở trong tôi đã gắn tôi thật chắc, thật bền, thật sâu với Vinh, đã gắn thật sâu, thật chặt tôi với vùng đất thiêng liêng nhiều mất mát đau khổ này. Lần về Vinh này tôi không có Bồn Thắng đi cùng. Bồn Thắng (Nguyễn Chí Bốn) sau cuộc ném bom của Mỹ lần thứ hai, được phong hàm trung úy, làm chính trị viên Đại đội 1 pháo 57mm. Lần gặp bạn chiến đấu-Đoàn pháo cao xạ phòng không Đống Đa năm mới rồi Bốn đã yếu lắm. Mấy tháng sau anh mất vì bệnh xơ gan mang theo biết bao kỷ niệm và lời hẹn cùng tôi về Vinh lấy một lần. Cái kỷ niệm tôi nói lúc đầu ấy là một lần hai đứa tôi ra Hà Nội, tôi vừa có một cái ký sự dài “Hướng Phụ” đăng ở Văn nghệ Quân đội, lại được tin cái ký ấy được tặng thưởng văn xuôi năm 1973. Nguyễn Chí Bốn thì về thăm Báo Phòng không-Không quân, anh đã là phóng viên của tờ báo này trong hai năm. Tôi gặp Bốn lần đầu khi từ trận địa “cây dừa” đi lấy lá nguỵ trang. Tôi vung dao chặt cành một cây phi lao lớn đã cụt ngọn thì có người từ dưới nói vọng lên:
- Này! Sao lại chặt cây ấy, nó ở đầu C1 của tôi đấy!
Tôi choáng người nhận ra Đại đội 1 vừa bị nặng ở Truông Bồn còn mỗi một khẩu vươn nòng, các khẩu khác bị thương đang trùm bạt, phủ lá cây. Tôi hấp tấp:
- Xin lỗi! Trời còn tối nên tôi không nhận ra.
Một giọng lịch sự hơi điệu:
- Anh ở “xê” nào?
- “Xê Tám”!
- À! Thế có biết Đ.T không. Đ.T làm thơ, viết văn ấy mà?
- Tôi đây!
Một cái bắt tay. Bốn ôm lấy tôi với những ngón tay nhỏ, dài ươn ướt.
- Mình là Bồn Thắng, phóng viên Báo Phòng không-Không quân tình nguyện về đơn vị vào bảo vệ thành phố Đỏ!
Tôi đọc luôn mấy bài thơ cho Bốn nghe, Bốn gật đầu khen: Có giọng riêng, nhiều xúc cảm. Còn thô, cần chuốt lại câu và mới hơn.
Chúng tôi thân nhau từ lần gặp bất ngờ bên trận địa và thường cặp kè ở tổ sáng tác trung đoàn mỗi khi chuẩn bị có hội diễn, ra Hà Nội rồi lại cùng về Vinh. Lần lấy nhuận bút ấy chúng tôi đãi nhau cốc sen dừa phố Phan Bội Châu và mời cả mẹ Duy Hùng thứ nước giải khát dân tộc đang được chuộng ở Hà Nội thời còn nghèo khó. Ra ga rồi, sờ ba lô mới nhớ anh Đậu Kỷ Luật nhờ chuyển một phần tiểu thuyết “Vùng Mẹo” tới nhà văn Bùi Bình Thi ở Tạp chí Tác phẩm mới Hội Nhà văn Việt Nam. Sắp đến giờ tàu chạy. Hai đứa khoác ba lô chạy ngược đường Nam Bộ (nay là đường Lê Duẩn) đến 65 Nguyễn Du. Thở cả ra đằng mũi, mang tai. Đến tòa soạn Tác phẩm mới danh tiếng bậc nhất lúc đó, anh Bùi Bình Thi lại đi vắng - chết người đây! Anh Luật Phó tổng biên tập báo quân khu ưu ái đặc biệt anh em viết trẻ. Anh tin tôi nên gửi cái phần quan trọng của đứa con “Vùng Mẹo” quý giá nhất của anh. Một người phụ nữ trẻ, xinh đẹp khuyên nên gửi lại rồi chị sẽ chuyển đến anh Bùi Bình Thi. Tôi đã dũng cảm gửi lại rồi kéo Bốn chạy thục mạng như để tránh pháo kích. Cả hai lao qua hai người gác cửa đã tránh sang một bên. Tàu chuyển bánh, hai thằng lính chiến khi ấy nom ngổ ngáo nhảy phốc lên bậc mất hút sau cửa lên xuống kịp chuyến tàu về Vinh.
Vinh đánh Mỹ
Có một chi tiết vui trong buổi trao đổi “Chiến đấu bảo vệ Vinh - Bến Thủy và xây dựng Trường Thi - Bến Thủy thành vùng di tích văn hóa quốc gia”. Khi tôi mời anh Bùi Thúc Nhâm lên nói chuyện, anh trở nên rụt rè. Con người đánh giặc như thần, đứng ở sở chỉ huy trung đoàn giọng trầm vang, khi vào trận đánh lần nào cũng động viên anh em chúng tôi ở trận địa: “Bình tĩnh, theo dõi tốp máy bay đầu. Bám chặt chiếc bay đầu. Đại đội trưởng chủ động cho đánh”. Bao giờ tôi cũng có cảm giác sau lời nói cuối cùng khuôn miệng đẹp của anh cũng tươi cười. Ấy thế mà hôm nay anh lại run, lạ chưa. Run run cả cổ tay áo. Tôi cẩn thận đưa anh cái mi-crô nhắc khẽ: “Anh run đấy, anh cứ nói dõng dạc lên”. Anh cười, giọng run run rồi nói to:
- Ấy, đánh nhau trước mặt mình là thằng thù nên mình không sợ. Còn hôm nay trước mặt mình bây giờ toàn những tay giỏi. Sợ nói không ra gì họ cười cho tẹt mũi!
Các bậc lão thành học giả, ký giả ngồi trên nghe anh nói vậy bật cười, anh Nhâm cũng bật cười thành tiếng.
Sau mấy giây cùng cười ấy, sự lạ nữa lại xảy ra, anh Nhâm không hề run nữa, anh xin phép cử toạ được ngồi để nói, bộ não điện tử, trí nhớ siêu việt giúp anh ở tuổi bát tuần tư duy mạch lạc, ngôn ngữ “lính” cụ thể và sống động, anh dẫn chúng tôi vào những khó khăn, những gian nan thử thách của những năm đầu Vinh đánh Mỹ.
Anh em chúng tôi là quân của anh, hoặc chỉ là người biết anh đều coi anh là vị “Trùm” cao xạ (pháo phòng không) còn lại của phòng không tuyến lửa khu Bốn.
- … Mình vốn là lính được đào tạo chính quy ngoài Bộ. Từ năm 1960 được điều về quê khu Bốn. Những năm 1959 - 1960 của thế kỷ XX, Mỹ cùng với chính quyền bên kia không chịu hiệp thương thống nhất. Họ hô lấp sông Bến Hải. Bắc tiến, nghĩ là tiến ngay sang Vĩnh Linh, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An tức là khu Bốn. Họ dùng máy bay vận tải C47 thả biệt kích được huấn luyện rất bài bản, có nghệ thuật giết người và phá hoại tinh vi. Họ đụng vào dân khu Bốn cách mạng với truyền thống “Bình - Trị - Thiên khói lửa” rồi “Xô viết Nghệ - Tĩnh”. Biệt kích thả khi đêm, sáng ra đã bị dân quân tóm gọn. Hồi đó nóc nhà khu Bốn (bầu trời) đang còn trống. Bọn C47 bay đêm còn bật đèn tín hiệu như đi dạo. Ngoài khu Ba bắn rơi một chiếc C47 tại Rịa (Ninh Bình). Khu Bốn kêu xin. Bộ điều vào Trung đoàn pháo cao xạ 280, anh chàng pháo trung cao cổ lỗ 90 ly do ông Đức (nước Đức) sản xuất từ thế chiến lần thứ hai. Tài liệu binh khí kỹ thuật không có phải ra chợ Giời Hà Nội lùng mua được tập tài liệu kỹ thuật về loại canon phòng không này.
Đơn vị pháo bảo vệ Vinh - Bến Thủy đầu tiên là nó, cái thằng 280 pháo to cục kịch, loại “voi béo”. Sau này nó được gọi là đoàn phòng không Hồng Lĩnh. Trên giao nhiệm vụ những ông voi này phải đánh được phản lực Mỹ. Ngoài Bộ tư lệnh Phòng không - Không quân đưa vào một đoàn chuyên gia Liên Xô giúp trung đoàn tìm hiểu tính năng kỹ thuật và chiến thuật đánh máy bay.
Anh cúi xuống một quyển sổ nhỏ, giấy ố vàng. Tôi chợt nghĩ, có lẽ là anh phải nhờ ghi chép trợ giúp trí nhớ cho anh nhưng không phải: Đó là quyển sổ ghi lại trận đánh Mỹ đầu tiên ở Vinh - Bến Thủy chiến sĩ tặng anh:
- … 12 giờ 25 phút ngày 15-8-1964, máy bay Mỹ từng tốp 2 chiếc, 4 chiếc bay thấp theo Cửa Hội dọc sông Lam vào đánh Vinh - Bến Thủy. Kho xăng Hưng Hòa cháy ngút trời, những chiếc A4D của Hải quân Mỹ trông như những chiếc thuyền cao tốc bay, liên tục cơ động, bay sát mặt sông bắn phá tàu hải quân của ta. Tàu tuần tiễu hải quân chạy ngược về phía ngã ba sông La để dạt vào sông Lam ở bờ sông phía núi Thành nhằm đánh trả nhưng có vẻ như không đương sức với bọn A4D bắn rốc-két 70 ly, đạn đại liên 20 ly và bom, tên lửa Bun-pớp của chúng. Pháo 90 ly đánh chúng ở trên cao, chúng vẫn tác oai tác quái ở tầm thấp ở giữa sông giữa một bên là núi Quyết, một bên là núi Cơm, núi Mồng Gà, núi Mâm Xôi của dãy Ngàn Hống (núi Hồng Lĩnh). Khi ấy trung đội súng máy cao xạ 14,5 ly bố trí ở mỏm thấp cực nam núi Dũng Quyết sổ đạn về phía bọn cướp trời. Khẩu 14,5 ly hai nòng xối đạn đón đầu và trên lưng tốp máy bay A4D. Chúng hốt hoảng bốc lên cao, khi ấy pháo 90 ly mới đĩnh đạc nổ súng.
Máy bay Mỹ xông vào mỏm núi bố trí trung đội súng máy cao xạ 14,5 ly, bị ăn đạn bốc khói chuồn ra biển. Các tốp khác quây lại đánh vào các trận địa pháo 90 ly khu vực Trường Thi - Bến Thủy và ở Xuân An, Hà Tĩnh. Bên Xuân An có trận địa pháo cao xạ 90 ly của Phan Đăng Cát. Từ trận địa ấy ta mới có được sự tích Phan Đăng Cát trên đường về phép, thấy máy bay Mỹ đánh Vinh - Bến Thủy vội khoác ba lô chạy quay trở lại, bơi qua sông, về trận địa chiến đấu, ba lần bị thương kiên quyết không rời lá cờ chỉ huy khẩu đội cho đến hơi thở cuối cùng tựa vào giường pháo hi sinh anh dũng. Trận người Vinh đánh Mỹ đầu tiên ấy ta có điển hình Phan Đăng Cát, Võ Sỹ Dũng đem ngụy trang ra trận địa hi sinh, trong sách của anh Thanh Đồng. Nhưng còn dấu tích trận địa súng máy cao xạ 14,5 ly đặt ở mỏm núi sát phà Bến Thủy cần phải tôn tạo như sau này ta tôn tạo trận địa Đại đội 6, Trung đoàn 214 trên đỉnh 102 núi Quyết!
Bút ký lịch sử của Đại tá-Nhà văn Đào Thắng
Một vùng Trường Thi-Bến Thủy (Kỳ 1)
(còn nữa)