Khu vực Trường Thi-Bến Thủy ngày nay. Ảnh: Phan Xuyến Thanh Đồng

Về Vinh

Đã lâu tôi mới lại có dịp đi đường trường bằng tàu hoả. Từ cơ quan Hội Nhà văn ở số 9 Nguyễn Đình Chiểu tôi bon xe máy qua nhà 65 Nguyễn Du, theo đường một chiều Yết Kiêu ra ga Hà Nội.

Khu biệt thự 65 Nguyễn Du từ lâu không còn là trụ sở chính của Hội Nhà văn nữa mà đã là căn nhà chia phần cho mấy cơ quan cấp hai của Hội Nhà văn. Đó là Nhà xuất bản của Hội, Hãng Phim, Tạp chí Nhà văn và Trung tâm Quyền tác giả văn học. Tôi có một kỷ niệm trên cái gạch nối dằng dặc từ Vinh ra Hà Nội rồi lại từ Hà Nội về Vinh với khu biệt thự 65 Nguyễn Du, một kỷ niệm rất hồn nhiên kiểu lính mà bây giờ có bạn sẽ coi là điên. Xin bạn đọc đừng sốt ruột, gượm rồi tôi sẽ kể.

Ga Hà Nội khi ấy còn được gọi bằng cái tên quen thuộc gốc gác của nó là ga Hàng Cỏ và biệt thự 65 Nguyễn Du khi ấy còn là trụ sở danh tiếng của Hội Nhà văn cách nhau trên một cây số. Tôi cùng với anh bạn nằm chung giường Nguyễn Chí Bốn - một tác giả làm thơ, chuyên gia viết tấu thơ cho đội tuyên văn trung đoàn. Tấu thơ nổi tiếng nhất của Bốn là “Ngọn cờ anh hùng Nguyễn Huy Hồng”.

Hồi đó là mùa xuân năm 1973, cơ quan chính trị đoàn pháo binh phòng không Đống Đa (Trung đoàn 233), sau những lần rải bom cuối cùng của máy bay B52 Mỹ vào khu phà Mượu, ngay sát sở chỉ huy trung đoàn, đã rời về cái nôi ấm áp thôn Phong Xuân, chúng tôi gọi là Phong Mít, Phong Chè bởi vì bà con trồng nhiều chè xanh và cây mít quả rất ngon. Tôi với Nguyễn Chí Bốn (bút danh Bồn Thắng) ở chung một nhà, nằm chung trên chiếc giường một gia đình nhường cho. Ở Phong Xuân - Làng Đỏ chúng tôi đã được chứng kiến giờ phút huy hoàng của dân tộc: Hiệp định Pa-ri được ký kết ngày 26-1-1973. Đêm hôm ấy cả Làng Đỏ, cả Vinh thành phố thân yêu của chúng tôi sau những gian khổ, hi sinh mất mát và những kỳ tích, bật dậy thăng hoa. Cả Vinh như vỡ tung với tiếng reo hò, tiếng súng đủ các loại, súng trường, súng tiểu liên, rồi pháo, pháo tép cả bánh, pháo đùng, pháo cối. Đạn vạch đường bắn lên trời thành dòng đỏ chín, súng bắn pháo hiệu xanh đỏ, đỏ xanh kéo dài cả tiếng đồng hồ. Tiếng hát vang lên trên loa đài buộc trên ngọn cây và cả dưới mặt đất, giọng hát cao vút của ca sĩ trẻ Doãn Tần. Nhiều giọng nữ rất hay của Làng Đỏ hoà vào nhau đầy tự hào bài Việt Nam trên đường chúng ta đi của nhạc sĩ Huy Du (lời thơ Xuân Sách).

Sáng sớm, tôi và Nguyễn Chí Bốn từ Phong Xuân qua Phong Văn, Phong Đồng cuốc vội về phía khu trận địa trung đoàn chúng tôi. Cả hai đứng lại dưới hàng phi lao già bị phạt hết ngọn trước cửa nhà máy nước đã bị bom, pháo phá hỏng. Để có một cuộc ngừng bắn này, từ đó đi đến toàn thắng, thống nhất đất nước tất nhiên vẫn còn một đoạn dài nữa nhưng hiệp định Pa-ri đã ký kết, Mỹ đã công nhận nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, tức là cả quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Mỹ sẽ rút hết quân ra khỏi Việt Nam. Đứng ở Phong Đồng, trên con đường ra kho xăng Hưng Hoà, nhìn về phía khu Trường Thi, kéo xuống tận Hưng Thuỷ, cả khu trung tâm thành phố, qua cầu Thông xuống khu phố 5, cả một vùng rộng lớn, cả một đô thị Vinh trống trơ, nát vụn. Sườn phía đông và phía bắc núi Quyết, trên các đỉnh núi, các yên ngựa bị cày lên đỏ lòm. Sau cuộc chiến tranh tàn khốc mới thấy Vinh - Trường Thi - Bến Thủy bị hủy diệt ghê gớm quá. Cái giá của máu, của công sức, tiền của, cái khuyết tật của đất và người phải cần đến bao đời mới đắp đền được? Tôi thấy lòng mình đầy xúc cảm, sự xúc động cuộn lên không sao nén nổi. Như bị nghẹt thở, tôi ôm vùi Nguyễn Chí Bốn và bật khóc như trẻ thơ. Bốn cũng run run đứng im cho tôi tựa. Tôi vốn là lính của đại đội 8, năm 1968 Mỹ ném bom hạn chế, trực chiến ở bến phà, rồi lại đi Sông Gianh, Quảng Bình, rồi lại vác súng máy cao xạ 12,7mm vào bắc Quảng Trị. Sau đó lại được gọi về núi Quyết. Đến cuộc chiến năm 1972, đại đội tôi cơ động dọc miền Hà Tĩnh rồi về chốt tại phà Linh Cảm. Đôi lần các thủ trưởng gọi lên trung đoàn làm thành viên tổ sáng tác. Lần về Vinh mới rồi thủ trưởng Bùi Thúc Nhâm tâm sự với các bác đồng lứa Thanh Đồng, Đậu Kỷ Luật: “Là lính chiến thì chỗ của nó phải ở trận địa nhưng thú thật chỉ lo nó chết. Thế mà cao số sống được. Thỉnh thoảng gọi lên tổ sáng tác cho giải lao”. Tôi rời vai Bốn nuốt nước mắt nói: “Mình viết một bài thơ”. Bốn đưa cho tôi tờ giấy rơm vàng, tôi có cây bút máy cũ viết luôn bài thơ “Thành phố của chúng ta” gửi báo Nghệ An. Sau này tôi được biết báo Nghệ An đã đăng bài thơ này. Tôi còn nhớ hai câu thơ:

“Thành phố của chúng ta

Công sự pháo nhiều hơn những mái nhà ngói đỏ”

Vâng, khi đó trước mặt chúng tôi chỉ còn duy nhất ngôi nhà ba tầng của công ty xây dựng là còn tương đối lành lặn, tuy mái ngói và cầu phong li-tô đã bị bay sạch. Bên kia đường xuống Bến Thủy, khu nhà Bộ tư lệnh Quân khu 4 bị san bằng. Gần Bến Thủy hơn, cửa hàng ăn uống Phượng Hoàng quét vôi mầu hồng bị trúng bom thông minh vào nóc sụn xuống. Gần chỗ chúng tôi hơn, khối nhà vàng bốn tầng của Ủy ban hành chính tỉnh trúng tên lửa không đối đất bị hỏng nặng. Ngôi nhà Tỉnh ủy bốn tầng quét vôi mầu hồng bề thế nhất, bị trúng nhiều lần bom tách ra làm hai nửa. Ngôi trường cấp hai ở khu phố 4 (đường Đinh Công Tráng hiện nay) bay hết nóc. Đấy, nhà tầng chỉ còn có thế, bốn phía xung quanh nhìn thông thống thấy lạnh cả người. Cả thành phố im ắng lạ thường. Sau một đêm tất cả mọi người dân từ các hầm, các ngõ ngách ăn mừng chiến thắng bằng đủ các thứ tiếng động của chiến tranh rồi bây giờ ngủ yên. Tất cả sự gồng mình, gắng gượng, đầy sự cố sức đến cùng giờ xỉu đi trong một sự yên tâm đến đau đớn.

Chúng tôi đi về phía trung tâm thành phố. Ngôi nhà đầu tiên hai chúng tôi đến là nhà anh Huỳnh Ngọc Dung, Trưởng phòng Văn hóa thành phố Vinh. Tôi biết gia đình anh Dung qua giới thiệu của Nguyễn Chí Bốn. Anh là người thương binh cụt một tay thời chín năm đánh Pháp. Chị Soa vợ anh, người ở huyện Thanh Chương. Anh có biệt tài bắn súng săn chim bằng cánh tay còn lại. Đám Le le, Sâm cầm, Vịt trời từ phương Bắc về trú đông ở các hồ nước quanh kho xăng Hưng Hoà đã giúp anh cải thiện bữa cơm gia đình thành buổi liên hoan. Tôi có mặt tại gia đình anh vào một buổi liên hoan như thế. Một gia đình văn hóa của Vinh, vừa lịch thiệp, vừa đầm ấm. Anh chị ngồi bên nhau. Cô con gái lớn Huỳnh Ngọc Lan ngồi sát, ôm mẹ. Cô là sinh viên khoa hóa Trường đại học Tổng hợp Hà Nội mới về, lãng mạn, kiêu sa, am hiểu nghệ thuật múa khen đôi chân của Kim Quy vừa học ở Liên Xô về đẹp nhất Việt Nam; am hiểu thơ và có tài về thơ; cô ở xa vời đối với hai chúng tôi mấy chàng lính mới tốt nghiệp phổ thông. Bốn người con còn lại: Lâm, con trai đã tốt nghiệp cấp III, chờ vào đại học; Sơn, học lớp mười cuối cấp; Hà, học lớp chín và Hảo, bé con đang học cấp một. Tôi ngồi rón rén, mặt đỏ bừng khi anh hỏi đến thơ và văn được đăng báo. Bữa cơm không bao giờ có thể quên ấy vào cuối năm 1971 khi đơn vị tôi từ đường số 9 Quảng Trị mới nhận lệnh về Vinh. Tình hình Mỹ đánh trở lại Vinh đã lộ rõ, máy bay trinh sát bay hằng ngày, và Vinh thầm kêu gọi những đứa con lính phòng thành như chúng tôi trở về.

Ngày 31-12-1971, ngày cuối cùng của năm, máy bay Mỹ bất ngờ đánh chân hàng ga Vinh, tên lửa, pháo cao xạ phối hợp bắn rơi tại chỗ hai chiếc. Dân Vinh, dân Cửa Lò, Nghi Lộc reo hò dậy đất. Đây là trận đánh báo hiệu năm 1972 lịch sử với trung đoàn pháo cao xạ 233 (Đoàn Đống Đa) chúng tôi. Hai chúng tôi đứng trước ngôi nhà bỏ không. Tôi đã có mặt ở ngôi nhà này hồi cuối năm 1972. Khi nhận được tin cái tang lớn của gia đình anh Dung, tôi đứng chôn chân ở giữa sân, đầu cúi xuống, nước mắt tuôn thành giọt lớn. Anh lúng túng ngồi dậy, đắp tấm dù cho cô con gái lớn đang nằm thiêm thiếp, thỉnh thoảng lại nấc khan. Mặt anh tái nhợt, chân nặng nề bước về phía tôi, nặng nề giơ cánh tay lành nắm lấy vai tôi giọng yếu ớt ngắt quãng: “Con ơi, nhà ba chỉ còn có thế này”. Sau, tôi mới được biết, khi máy bay ném bom, pháo biển bắn vào thành phố anh phải đội mũ sắt đến nơi tập trung tự vệ. Nhà có hai cái hầm lớn, bố mẹ một hầm, các con một hầm, để nếu có sao thì còn người. Pháo hạng nặng có tăng tốc từ tàu Mỹ bắn vào Vinh chầm chậm từng quả một, nổ gần, mẹ lo sợ cho các con quá chạy sang với mấy đứa. Một quả pháo lớn rơi trúng hầm, xuyên qua, nổ bên trong, không ai có thể sống sót bởi một quả pháo nặng ngang một quả bom như vậy!…

Ngôi nhà thứ hai chúng tôi đến là nhà cậu mợ Tuất. Nhà thấp tè bám vào một bên ngã tư cửa Bắc đối diện với chùa Diệc phía bên kia đường. Tôi biết gia đình cậu mợ Tuất là do tổ trưởng tổ sáng tác trung đoàn Tưởng Duy Hùng giới thiệu. Gọi cậu mợ là gọi theo kiểu Hà nội, kiểu dân phố cổ 74 Cầu Gỗ Tưởng Duy Hùng. Bà gốc dân Ứng Hoà, Hà Tây gần quê nội Duy Hùng, còn ông dân Nghệ chính hiệu. Ông quê ở Chín Nam (chín xã phía nam sông Lam của huyện Nam Đàn) người cao gầy lao động chính nuôi cả nhà. Bà là nhân viên cửa hàng lương thực Cửa Bắc. Cả một đàn con đông đúc hơn nhau nửa mái đầu : Hưng, Quang, Thịnh, Vượng, Hùng, Cường, Dũng. Sáu trai một gái. Cả tổ sáng tác trở thành con đẻ của hai ông bà, đứa gọi bố mẹ, đứa gọi cha mẹ, chỉ mình Duy Hùng gọi là cậu mợ Tuất.

Tôi chưa giải thích được vì sao ông bà bám trụ ở ngã tư trơ trụi này trong suốt cuộc chiến tranh mà nhà không mất một ai. Hưng, con cả vào bộ đội, năm 1972 về bảo vệ thành phố, lính Đại đội 3 pháo 57mm trung đoàn tôi. Bom nổ dựng pháo lên vẫn sống, chỉ bị thương. Quang vào làm lính trung đoàn thông tin Quân khu 4, sau lấy vợ tên là Tâm cũng là lính ở trung đoàn này. Còn Thịnh, cô em gầy nhẳng mỗi bận các anh về, xăng xái xách làn ra chợ mua cá thu ù (cá ngừ) cá nục, mua rau sống, mua cà chua về để mợ làm bữa chống suy dinh dưỡng cho các anh. Chúng tôi thức thâu đêm trong ngôi nhà tạm của ông bà, bàn chuyện sáng tác những tiết mục ngợi ca sức sống mãnh liệt của thành phố Đỏ, chuẩn bị cho hội diễn 10 năm chiến đấu và chiến thắng của Quân khu 4: Duy Hùng, Phùng Chiến, Nguyễn Chí Bốn, Đào Thắng, Lê Danh Ca, Nguyễn Ngọc Lợi, Nguyễn Thế Sự, Văn Trung, Văn Kha, Kim Anh Lợi… Chín mười thằng con văn nghệ uống trà, hút thuốc lá thâu đêm. Duy Hùng đêm nào cũng lén ra ngoài nhặt những mẩu thuốc người ta vứt ngoài đường mang về xé ra dùng giấy thuốc quấn lại hút. Còn ông ngồi với li cà phê đen lặng lẽ nhìn chúng tôi tranh luận, thỉnh thoảng cho một chữ chuẩn xác về Vinh. Về sau con cháu chúc thọ ông 80 tuổi, ngồi uống nước ông mới cho tôi biết ông chính là người của Ban Tuyên huấn Trường Sĩ quan Lục quân Trung Bộ.

... Anh bạn trẻ ngồi ở ghế bên cạnh tôi bỗng giục:

- Chú đi tàu tốc hành NA I (Nghệ An I) hả chú? Nhà ga mở cửa rồi đấy. Chú vô đi, tàu NA I ở đường sắt số 5, phải vòng xa chú ạ. Đồ của chú có nặng không? Cháu có thể mang giúp.

 Bút ký lịch sử của Đại tá - Nhà văn Đào Thắng

(còn nữa)