QĐND - Mỗi khi nhớ về Quảng Trị, nhắc đến Thành cổ, những cựu chiến binh Sư đoàn 320B (Đoàn B90 hiện nay) từng tham gia mùa hè đỏ lửa năm ấy không khỏi nhớ về những kỷ niệm một thời hào hùng, một thời máu lửa, một thời khốc liệt. Nhiều người, sau gần 40 năm, vẫn bàng hoàng, ngơ ngác khi chợt hỏi giữa làn bom đạn dày đặc như thế, làm sao mình vẫn sống, vẫn vượt qua và đi đến chiến thắng…
Và đó là lý do thôi thúc tôi về Đoàn B90 nhân dịp kỷ niệm 60 năm ngày truyền thống của đơn vị. Trước đó, tôi có may mắn 3 lần được đi theo các cựu chiến binh Trung đoàn Thạch Hãn, Trung đoàn Triệu Hải, Trung đoàn Vĩnh Định, là 3 đơn vị trực thuộc Đoàn B90 về thăm lại chiến trường xưa Quảng Trị. Từ đó, trong tôi cứ khắc khoải khôn nguôi! Chiến công của Sư đoàn được cả nước và bạn bè quốc tế biết đến nhưng sự thật mà những người lập nên chiến công ấy đã trải qua; sự thật về sức chịu đựng phi thường giữa mưa bom, bão đạn mà các anh đã gánh chịu thì không mấy ai biết được tận tường.
Đại tá Nguyễn Văn Hải, Đoàn trưởng đón tiếp tôi thân tình như người nhà trong sở chỉ huy mới, rất khang trang. Anh Hải cũng vừa “kỷ niệm tròn 24 năm gắn bó với Đồng Bằng”. Anh chia sẻ với tôi về niềm say mê lịch sử của Đoàn B90 nói chung và lịch sử từng trung đoàn nói riêng. Anh cho biết, gần 20 năm trở lại đây, Đoàn B90 làm nhiệm vụ xây dựng điểm khung thường trực vững mạnh toàn diện cho Bộ và Binh đoàn. 20 năm qua, lá cờ truyền thống “Đoàn kết – Nghiêm túc – Dũng cảm – Chiến thắng” của Đại đoàn Đồng Bằng ngày nào vẫn được đơn vị giương cao trong nhiệm vụ mới.
 |
Đội ngũ sĩ quan Đoàn B90 tọa đàm về Chiến dịch phản kích lấy lại cảng Cửa Việt đầu năm 1973 của Sư đoàn 320B. |
Câu chuyện quanh nhiệm vụ huấn luyện chiến thuật, diễn tập tổng hợp lại cuốn chúng tôi xoáy vào những trang sử của Sư đoàn 320B trong thời gian chiến đấu ở Quảng Trị. Anh Hải nói: “Chẳng ở đâu, huấn luyện bộ đội thuận lợi như ở đơn vị tôi. Gần như mọi tinh hoa nghệ thuật quân sự đều có thể tìm thấy ví dụ bằng chính những chiến công của đơn vị. Ví dụ: Huấn luyện cấp đại đội, có trận tập kích nổi tiếng của Đại đội 2 (Tiểu đoàn 3, Trung đoàn Triệu Hải) ở Sáp Đá Mài, năm 1970. Cũng chính Tiểu đoàn 3, năm 1972 có trận phục kích kinh điển về tài bố trí đội hình, sử dụng lực lượng tại Cao điểm 322 ở gần cầu Thiện Xuân. Huấn luyện phòng ngự thì không thể không kể đến 81 ngày đêm bi tráng chốt giữ Thành cổ Quảng Trị của Trung đoàn Thạch Hãn. Ở tầm chiến dịch thì có chiến dịch phản kích lấy lại vùng giải phóng Cửa Việt cuối năm 1972, đầu 1973 của toàn sư đoàn... Bây giờ, trong nhà truyền thống có sẵn sa bàn mô tả một số trận đánh tiêu biểu, bộ đội vào thăm, vừa được tham quan, vừa hình dung ra bài học, rất dễ hiểu, thật là tiện cả đôi đường”.
Anh Hải dẫn tôi đi thăm nhà truyền thống, chỉ cho tôi xem những mô hình trực quan “hai trong một” như anh vừa nói. Giữa phòng treo một bảng ảnh gồm 11 cá nhân đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Phần lớn trong 11 anh hùng đều được phong tặng từ thành tích trong thời kỳ sư đoàn chiến đấu tại Mặt trận Trị Thiên như các anh hùng: Phùng Quang Thanh, Nguyễn Huy Hiệu, Nguyễn Như Hoạt, Vũ Trung Thướng, Mai Ngọc Thoảng, Giang Văn Thành, Trần Minh Vân...
Nhắc đến Trần Minh Vân, tôi còn nhớ hôm ông nhận danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân (tháng 9-2010). Khi lên phát biểu, ông dường như không nói gì về bản thân mà dành toàn bộ thời gian ôn lại kỷ niệm về những đồng đội đã ngã xuống trên chiến trường Quảng Trị. Vừa qua, tôi đến thăm, bắt gặp ông đang ngồi trầm ngâm. Ông bảo: “Thành tích của cá nhân mình luôn ghi đậm chiến công của các đồng đội. Còn nhớ, hồi tháng 4-1972, khi mình là Tiểu đoàn trưởng, được giao chỉ huy tiểu đoàn tiến công giải phóng sân bay Ái Tử. Suốt mấy ngày, mình đi trinh sát nhưng không nghĩ ra kế gì lọt qua hệ thống bãi mìn, vật cản mà địch bố trí dày chằng chịt quanh sân bay. Bỗng một buổi trưa, Trung đội trưởng Nguyễn Khắc Nghiên (sau này là Thượng tướng, Tổng tham mưu trưởng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng) chạy lên báo rằng, anh phát hiện một trung đội địch từ sân bay đang đi ra ngôi làng gần đó để bắt gà, bắt chó. Với nhãn quan chiến thuật nhạy bén, Nguyễn Khắc Nghiên lập tức cho trung đội bám sát địch để tìm ra con đường đi vào sân bay. Tôi liền lệnh cho các bộ phận bám theo trung đội của Nguyễn Khắc Nghiên, thực hiện đánh từ trong đánh ra, từ ngoài đánh vào khiến địch trở tay không kịp. Từ trận đó, anh em gọi tôi là “Triệu Tử Long ở sân bay Ái Tử”, nhưng cá nhân tôi thì cho rằng, chiến công phát hiện ra con đường cơ động của địch, từ đó tìm ra cách đánh táo bạo của Nguyễn Khắc Nghiên là rất lớn. Vậy nhưng, sau trận đánh, khi bình công, Nguyễn Khắc Nghiên không nhận thành tích về mình...”.
Tâm sự của Anh hùng Trần Minh Vân lại khiến tôi nhớ đến Thiếu tướng, Anh hùng LLVT nhân dân Giang Văn Thành. Đêm 27-1-1973, địch âm mưu dùng mấy giờ còn lại trước khi ngừng bắn theo Hiệp định Pa-ri để xua quân đi lấn chiếm vùng giải phóng, chiếm cảng Cửa Việt hòng tạo chuyện đã rồi. Sư đoàn 320B, với lực lượng chủ yếu là Trung đoàn Vĩnh Định, Trung đoàn Triệu Hải đã dũng mãnh tiến công địch dưới làn mưa bom, bão đạn, bẻ gãy mũi tiến công của địch lên Cửa Việt. Bị đánh thiệt hại nặng, địch không tới được Cửa Việt, không lấn thêm được tấc đất nào của vùng giải phóng, buộc phải chấp hành lệnh ngừng bắn lúc 8 giờ 45 phút ngày 28-1-1973.
Tuy nhiên, địch đã dùng mọi thủ đoạn, tranh thủ lúc ta chấp hành nghiêm Hiệp định Pa-ri, dùng cờ lấn đất, cứ tốp đi trước cắm cờ lấn chiếm, tốp đi sau dùng hỏa lực hậu thuẫn. Ta càng nhân nhượng, địch càng ngang ngược dùng xe tăng, bộ binh chiếm đoạt. Cuộc chiến đấu chống địch lấn đất diễn ra quyết liệt. Đại đội trưởng Giang Văn Thành, lúc đó mới chớm 19 tuổi, đã kiên quyết chỉ huy Đại đội 6 anh dũng tiến thẳng vào đội hình lữ đoàn đặc nhiệm của địch, góp phần đánh tan âm mưu chiếm đất của Mỹ-ngụy. Sau ngày đất nước thống nhất, anh Thành đã âm thầm tổ chức hàng chục chuyến đi trở lại chiến trường xưa Quảng Trị, lần lượt tìm kiếm hài cốt những đồng đội đã hy sinh mà chính anh trực tiếp chôn cất trước đây, đưa về quê với người thân, gia đình. Xung quanh chuyện này, có hàng trăm câu chuyện cảm động về nghĩa tình đồng đội của anh Thành dành cho đồng đội. Tôi đã “bám” anh nhiều lần, hy vọng sẽ “kiếm” được bài viết hay cho báo nhà. Nhưng anh Thành không chịu. Có lần, ngồi riêng với tôi tại Tòa soạn số 7-Phan Đình Phùng, nhắc đến Quảng Trị, mắt anh ướt nhòe. Anh bảo: “Đừng bắt anh phải nhớ lại. Thế hệ cán bộ, chiến sĩ đã “một thời Quảng Trị”, thực ra cũng chỉ là những con người bình dị. Như cố Tổng bí thư Lê Duẩn từng nói: Chúng ta đã chịu đựng được không phải vì chúng ta là gang thép, vì gang thép cũng tan chảy dưới bom đạn khủng khiếp của quân thù, mà chúng ta là con người, những con người Việt Nam với truyền thống bốn nghìn năm văn hiến đã giác ngộ sâu sắc trách nhiệm trọng đại trước Tổ quốc và thời đại”.
Anh Hải dẫn tôi đến bên một tảng gạch đặt trong nhà truyền thống. “Tảng gạch Thành cổ” – tôi nhận ra ngay. Hồi tháng 9-2010, cùng các cựu chiến binh trở lại thăm Thành cổ Quảng Trị, tôi cứ nhớ mãi hình ảnh các chiến binh lừng lẫy một thời đứng lặng bên Di tích Thành cổ với bức tường thành chẳng có đoạn nào còn nguyên vẹn. Trận địa xưa đã thay đổi rất nhiều nhưng ký ức của các cựu chiến binh về một thời hoa lửa thì vẫn còn nguyên vẹn. Hầm dinh Tỉnh trưởng Quảng Trị bên bờ sông Thạch Hãn, khi xưa là Sở chỉ huy, đồng thời là chốt chiến đấu, trạm phẫu của Trung đoàn Thạch Hãn trong 81 ngày đêm khói lửa, nay đã sừng sững một tấm bia đá ghi công bên cạnh Đài thả hoa, một nét văn hóa tâm linh của người dân cả nước mỗi khi về thăm Quảng Trị. Được biết, người khởi nguồn cho nghi lễ thả hoa trên sông Thạch Hãn chính là nhà thơ Lê Bá Dương, nguyên chiến sĩ Trung đoàn Triệu Hải. Lê Bá Dương sẽ đi vào lịch sử thơ ca nước nhà bởi bài thơ bất tử 4 câu: “Đò lên Thạch Hãn... ơi, chèo nhẹ/Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/Có tuổi hai mươi thành sóng nước/Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm”. Lê Bá Dương cũng là một trong những cựu chiến binh nặng lòng với đơn vị cũ. Hiện đang sống, công tác ở Khánh Hòa, nhưng mỗi năm đôi ba lần, ông vẫn “ba lô lộn ngược”, đi tàu ra Bắc thăm đơn vị.
Vừa rồi, đơn vị sắp xếp lại Nhà truyền thống, nhà thơ Lê Bá Dương lại ra. Trong các hiện vật, nhà thơ rất tâm đắc với tảng gạch Thành cổ Quảng Trị, vì nó là hiện vật gốc. Tảng gạch này do đồng chí Nguyễn Khắc Nghiên lấy về. Anh Hải cho biết, năm 1990, anh tháp tùng Đại tá, Đoàn trưởng Đoàn B90 Nguyễn Khắc Nghiên vào thăm Quảng Trị, tri ân những người dân đã đùm bọc, giúp đỡ đơn vị trong những năm tháng chiến tranh. Khi về, xe chạy qua Thành cổ, Đoàn trưởng cho dừng lại, bảo anh Hải cùng mấy đồng chí khác đi cùng, vào tìm được tảng gạch này, đưa về Nhà truyền thống. Đây cũng là điều mà anh Hải vẫn thường kể lại cho lớp sĩ quan trẻ cùng các đơn vị dự bị động viên mà Đoàn B90 hiện đang quản lý, huấn luyện. Anh Hải thú thực: Trước đây, tôi cũng ít chú ý đến công tác giáo dục truyền thống, nhưng từ lần cùng Thủ trưởng Nghiên vào Thành cổ lấy tảng gạch về, tự thấy đó như một “mệnh lệnh không lời” của cấp trên, rằng trách nhiệm giáo dục truyền thống không phải là công việc của riêng ai.
Đó cũng là nỗi lòng của hàng vạn cựu chiến binh đã trải qua “một thời Quảng Trị” nhờ tôi gửi đến bạn đọc.
Bài và ảnh: Hồng Hải