QĐND - Nhiều năm trước, việc qua lại đôi bờ thượng nguồn sông Gianh của bà con ở xã Đồng Hóa, huyện Tuyên Hóa (Quảng Bình) gặp nhiều khó khăn. Khách qua sông bằng chiếc thuyền gỗ cũ kỹ, vừa bất tiện, vừa mất an toàn giao thông. Từ khi anh thương binh Nguyễn Văn Khanh bắc chiếc cầu phao qua sông, việc đi lại rất thuận tiện, bà con ai cũng ngợi khen người cựu chiến binh giàu nghị lực, giàu lòng nhân ái.
 |
Ông Nguyễn Văn Khanh đang kiểm tra cầu phao.
|
Sông Gianh ở thượng nguồn không rộng, luôn trong xanh, soi bóng dãy núi đá vôi trùng điệp như bức tranh thủy mặc. Tuy nhiên, ở huyện miền núi Tuyên Hóa, đời sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn, các xã ven sông như Đồng Hóa, Thuận Hóa… chưa có những cây cầu chắc chắn, nên việc qua sông rất khó khăn, bất tiện. Trẻ em đến lớp, bà con đi chợ, có việc lên xã, lên huyện… đều phải qua đò. Nhiều khi chỉ trễ một chuyến đò mà gặp bao phiền toái, nhất là khi cấp cứu bệnh nhân, có khi gọi được đò thì đã xảy ra chuyện đáng tiếc.
Thôn Đồng Phú, xã Đồng Hóa nằm bên kia sông, cách trung tâm xã không xa, nhưng phải qua đò ngang cách trở. Nhu cầu đi lại qua sông của bà con khá lớn, trung bình khoảng 300 lượt người/ngày. Ở đây, ngày nào bà con cũng qua sông để đi chợ bán nông sản, mua hàng tiêu dùng; trẻ em lên cấp trung học phổ thông phải qua sông đến lớp. Vậy mà nơi đây chỉ có một chiếc đò chèo tay, vừa bé, vừa cũ, lại không có phao cứu sinh. Nhiều em học sinh phải lỡ tiết học do đến nơi thuyền vừa rời bến, hoặc đã đầy khách, chờ một chuyến phải đợi gần nửa giờ. Cách đây 2 năm, có một sản phụ đã tử vong do phải chờ đò, không được đưa đi cấp cứu kịp thời.
Việc giao thương kinh tế, trao đổi hàng hóa, đời sống tinh thần của bà con cũng vì cách sông mà nhiều năm phải chịu khó khăn, thiệt thòi. Thôn Đồng Phú có 194 hộ dân thì tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo chiếm tới 80%; số hộ làm ăn khá không đáng kể. Trẻ em lớn lên, được học hành, nhưng rất ít em thi đỗ đại học. So với các thôn, xã vùng sâu, vùng cao khác trong huyện, Đồng Phú không phải là xa xôi nhất, nhưng vẫn nghèo và lạc hậu. Tình trạng trên có nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những yếu tố là hệ thống giao thông thiếu và yếu. Về cơ sở hạ tầng “điện, đường, trường, trạm, chợ” thì Đồng Phú chỉ mới có điện, các hệ thống khác còn rất chắp vá. Năm trước, khi qua sông đến thăm người bạn đồng ngũ, chúng tôi suýt ngã xe xuống ruộng vì con đường sống trâu đầy ổ gà. Nơi đây, chiếc cầu qua sông luôn là niềm mơ ước, nỗi khát khao của bà con từ hàng chục năm qua. Người dân nói: Bắc cầu gì cũng được, miễn là chắc chắn, an toàn và đi lại thuận tiện.
Sinh ra từ làng, lớn lên từ bờ sông và đi bộ đội, Nguyễn Văn Khanh thấu hiểu nỗi cơ cực của bà con quê mình khi đò giang cách trở. Mang nỗi nhớ quê nghèo vào quân ngũ, đầu năm 1987 anh phục vụ tại Trung đoàn 6, thuộc Tỉnh đội Bình Trị Thiên. Khi tỉnh chia tách, Nguyễn Văn Khanh được điều về huyện đội Quảng Trạch. Cuối năm 1988, anh ra nhận công tác ở đảo La (Ban CHQS huyện Quảng Trạch). Trên đảo nhỏ giữa trùng khơi, luôn đối mặt với khó khăn nguy hiểm, nhưng anh và đồng đội đã phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ. Trong một lần tác nghiệp, không may một quả đạn phát nổ, anh và một số đồng chí bị thương. Hiện cánh tay phải của anh bị cụt, chân trái teo cơ. Anh đang hưởng chế độ thương binh hạng 2/4, nhưng sức khỏe yếu.
Cuối năm 1990, thương binh Nguyễn Văn Khanh trở về quê, khi xóm thôn còn nhiều khó khăn. Tham gia sinh hoạt ở Hội Cựu chiến binh (CCB) thôn Đồng Giang, cũng như nhiều đồng đội khác, Nguyễn Văn Khanh luôn trăn trở làm sao bắc được một chiếc cầu qua sông. Năm nào cũng vậy, cứ vào mùa lũ là nhiều khi thuyền không qua sông được, học sinh phải nghỉ học. Có khi chủ đò lợi dụng ban đêm, tự ý nâng giá 5000 đồng/khách, làm bà con bức xúc. CCB Nguyễn Văn Khanh đưa vấn đề làm cầu trình bày với chính quyền thôn, xã và bàn bạc trong chi hội CCB. Nhiều người hoan nghênh ý kiến của anh, nhưng khi bảo họ cùng góp vốn để làm cầu thì ai cũng lắc đầu, vì họ không có tiền và ngại không thành công, sợ bị lũ cuốn trôi; người vun vào, kẻ nói ra, có lúc anh cũng định bỏ cuộc.
Thế nhưng vì bà con, anh lại tiếp tục vận động ông bà, vợ con, nói rõ sự cần thiết và cách thức làm cầu, dần dà các cụ cũng ủng hộ anh về tinh thần và một ít tiền bạc.
Với ý chí và kỹ năng của một người lính đảo, anh bắt đầu tự thiết kế và làm dự toán. Nói là thiết kế cho oai, chứ thực ra bản vẽ của anh đơn giản lắm. Chỉ hai tờ giấy A4 và một tờ giấy học sinh, chưa đầy một buổi anh đã hoàn tất “hồ sơ công trình”. Anh vẽ cây cầu bằng cánh tay còn lại, nhưng trông rất đẹp; dự toán thì anh đọc cho con gái đang học lớp 8 giúp làm tính. “Hồ sơ thiết kế” của anh trình lên và được xã nhất trí. Vui như được chắp thêm cánh, CCB Nguyễn Văn Khanh mừng quên ăn, quên ngủ, lo chạy ngược chạy xuôi vay tiền để mua vật tư làm cầu.
Qua nhiều lần đo đạc, lặn lội để khảo sát địa chất và thủy văn, anh chọn đoạn sông hẹp để xây dựng cầu. Thấy anh lầm lũi một mình nghiên cứu bờ sông, mực nước, nhiều người thấy thương, nhưng cũng có người bảo anh “không bình thường”. Khi “dự án” được xã nhất trí, anh đề nghị Chi hội CCB giúp đỡ thêm ít ngày công để đóng cọc, còn anh tự làm là chủ yếu. Bước đầu anh dùng tiền gia đình tiết kiệm được 60 triệu đồng, rồi vay thêm ông bà, anh em, đồng đội được 20 triệu đồng, thế chấp "sổ đỏ" vay ngân hàng 40 triệu đồng nữa, tổng cộng được 120 triệu đồng. Anh lo đi mua vật liệu và tiến hành “công trình mơ ước”.
Vật liệu dùng để làm cầu gồm: Thùng phuy kết phao, gỗ đóng cọc hãm, làm lan can và ván sàn; riêng gỗ thì không lo lắm, vì vùng quê anh rất sẵn gỗ, chỉ cần đặt quy cách là họ chở đến tận nơi, ưu tiên gỗ tốt để chống mưa nắng. Đầu tư nhiều nhất là cho mua thùng phuy nhựa, chỗ cầu cao nhất phải đặt nhiều thùng, còn phần lớn đặt từ 6 đến 8 thùng mỗi nhịp. Với hơn trăm chiếc thùng phuy như vậy đã chi hết gần 70 triệu đồng; rồi còn gỗ, tuy được “ưu tiên” mua giá rẻ, nhưng khi chế biến xong cũng đã chi hết khá nhiều tiền. Các loại vật liệu phụ và tiền thuê nhân công phụ thêm, cộng vào đã vượt dự toán.
Chuẩn bị xong, CCB Nguyễn Văn Khanh tiến hành lắp cầu. Được anh em CCB giúp sức, buổi “khởi công” rất vui, bà con và trẻ em ra bờ sông xem anh thương binh vừa chỉ huy, vừa tự đóng cọc, ráp ván thoăn thoắt, bà con rất khâm phục. Ngày lại ngày, anh dầm mình dưới nước để cố làm cho xong cây cầu, khiến vợ anh rất lo anh ốm và vết thương tái phát. Cứ sau mỗi ngày, chiếc cầu lại dài thêm ra và đến ngày thứ 40 thì hai bên cầu phao đã “hợp long”. Khỏi phải nói niềm vui, cảm xúc của mọi người khi lần đầu tiên được bước chân lên “cây cầu mơ ước”. Chiếc cầu dài 160m, rộng 1,8m, chỗ cao nhất cho thuyền đi qua cao 3,5m. Trên sàn cầu còn thơm phức mùi gỗ, trẻ em tung tăng đạp xe đến trường, bà con đi chợ, đi làm qua sông chỉ mất vài phút, rất thuận lợi, dân làng trìu mến đặt tên công trình là “Cầu ông Khanh”. Ông Khanh vui lắm, chạy qua bên này bên kia cầu, nhắc học trò và bà con đi theo thứ tự, không chen lấn, gây mất ATGT. Ngày nào ông cũng cẩn thận kiểm tra từng ốc vít, từng tấm ván sàn, khi thấy nứt, hỏng là thay ngay để tránh tai nạn.
Vậy nhưng, chiếc cầu phục vụ bà con được 10 năm thì… bị trôi. Nguyên nhân do cơn lũ năm 2010 quá hung dữ. Lũ kéo về ban đêm quá nhanh, làm ông Khanh và mọi người không kịp trở tay. Theo nguyên lý làm cầu phao thì “nước nổi, bèo nổi” nhưng nước sông Gianh lên cao đột ngột, lũ cuồn cuộn làm ngập và cuốn phăng nhiều công trình, nhà cửa; chiếc cầu không thu kịp, bị cuốn trôi là điều bất khả kháng. Ông Khanh buồn thiu, tiếc công, tiếc của, bỏ ăn và ốm một tuần.
Nhưng nghị lực của người lính không cho phép ông đầu hàng thủy thần. Hết ốm, ông Khanh ra bờ sông nhặt nhạnh mấy nhịp còn lại, tiếp tục bắc cầu phao. Vừa có kinh nghiệm của đợt làm trước, vừa được sự động viên, hỗ trợ tích cực của chính quyền, ông lại vay tiền, xẻ gỗ, mua thùng phuy. Lần này ông thiết kế chắc chắn hơn, cơ động hơn, tháo lắp dễ dàng khi lũ tới. Lại gần một tháng ông cùng đồng đội dầm mình dưới nước để thi công, mặc cho mùa đông rét mướt. Cây cầu đã “hồi sinh” lần thứ hai vào đầu năm 2011, bảo đảm cho người đi bộ, đi xe đạp, xe gắn máy ngược chiều tránh nhau dễ dàng hơn.
Hơn 10 năm trời, tự bỏ ra nhiều công sức và tiền bạc để làm cầu, nhưng ông Khanh không đặt vấn đề thu phí. Khi làm cầu lần hai, mọi người bảo ông thu tiền để sửa chữa, ông cũng lắc đầu. Đến khi trưởng thôn và Chi hội CCB bảo ông cần phải thu phí để duy tu bảo dưỡng cầu, đảm bảo ATGT cho bà con qua lại lâu dài, ông mới chịu nghe, nhưng chỉ thu lấy lệ và vẫn miễn phí cho các học trò. Khi chúng tôi đến nhà tìm ông, bà Phương bảo: "Ông Khanh mấy khi ở đây, nhà ông ở ngoài cầu phao kia kìa!". Chúng tôi xuống cái lán nhỏ bên chân cầu, thấy ông Khanh đang nằm trên chiếc chõng tre, chăm chú nhìn ra bờ sông. Buổi trưa nắng gắt, từng tốp học trò vừa tan trường đang hối hả đạp xe qua cầu. Ông rất vui vì từ khi có chiếc cầu phao, số học trò bỏ học ở thôn Đồng Phú không còn. Đó cũng là niềm vui chung của bà con và Hội CCB xã miền núi Đồng Hóa.
Bài và ảnh: XUÂN VUI