Tổ ấm của hai cựu chiến binh Trường Sơn: ông Lê Công Thú và bà Lê Thị Xuân Thu nằm giữa lòng TP Đồng Hới (Quảng Bình). Khoảng sân hẹp của gia đình ông bà nhưng có cả cây rừng, phong lan và suối chảy róc rách cùng tiếng chim hót líu lo. Tất cả như gợi nhớ một cánh rừng Trường Sơn thanh bình. Mối tình của họ đẹp như cổ tích...

Họ cùng lớn lên ở xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, là đôi bạn thân học chung một lớp, ngồi chung một bàn. Thậm chí trong sổ ghi điểm của lớp, tên của họ cũng xếp sát nhau vì cùng vần. Mối tình học trò đẹp như trang giấy trắng được hai người mang theo vào Trường Sơn đầy khói lửa, nhưng cũng không kém phần lãng mạn.

Ông Lê Công Thú và bà Lê Thị Xuân Thu.

Tháng 7-1965, anh Thú, chị Thu cùng lên đường gia nhập lực lượng TNXP, thuộc Đại đội 7 huyện Quảng Ninh. Đường 16, nơi anh chị làm nhiệm vụ lúc bấy giờ chưa có tuyến vận tải cơ giới, mới chỉ là đường mòn xuyên qua rừng rậm, núi cao. Nhiệm vụ của đơn vị chủ yếu là gùi, thồ và mở đường. Từ suối Bang ở Lệ Thủy, họ cõng hàng vượt đỉnh 700, trèo đèo 1001, vào tận Cù Bai, Cù Bạc, qua biên giới Việt-Lào. Đại đội có 227 thanh niên đầy nhiệt huyết, lặng lẽ gùi vũ khí, đạn dược và hàng hóa vào miền Nam. Tốp con trai khỏe mạnh thì gùi nhiều hơn, còn tốp con gái “chân yếu tay mềm” nhưng cũng thi đua vượt chỉ tiêu trên giao. Kể sao cho hết sự gian lao vất vả của những ngày ở rừng và thường xuyên “tắm mưa, gội đạn”. Mới đầu, đại ngàn Trường Sơn gần như còn nguyên sơ. Thú dữ, rắn độc, muỗi vắt và lũ rừng luôn đe dọa tính mạng mỗi người. Đó là chưa kể trên trời máy bay nhòm ngó và oanh tạc, dưới đất có thám báo phục kích. Gian khổ nhất là vượt đèo 1001 cao chót vót, đầu người sau chạm gót chân người đi trước. Có những lúc phải bò để gùi, không cẩn thận là nhào cả người và hàng xuống vực...

Anh Thú ở tiểu đội nam, chị Thu ở tiểu đội nữ. Hồi còn đi học, chị là hoa khôi của lớp, vào TNXP khi mới 17 tuổi, qua mấy tháng gùi hàng đã rắn rỏi hẳn lên. Cùng một đại đội, mặc dù thương và yêu nhau lắm, nhưng kỷ luật chiến trường không cho phép anh chị công khai. Trên đường hành quân, khi thì anh san đỡ cho chị vài viên đạn, ăng-gô gạo, lúc lại dúi cho chị miếng vải dù hoa hay phong lương khô. Có lúc mùa mưa kéo dài, áo quần rách bươm, anh nhường cho chị tấm áo còn lành lặn. Tình cảm anh chị dành cho nhau chỉ đọc qua ánh mắt. Đầu năm 1966, đơn vị chuyển ra Đường 20. Thấy Xuân Thu có chữ đẹp, viết rõ ràng, đại đội rút lên làm thống kê. Ban chỉ huy đóng trong một cái hang rộng ở đỉnh U Bò, bom Mỹ đánh phá ngày đêm nhưng không làm gì được. Anh thì vẫn ngày đêm bám cầu đường và trọng điểm để thông xe. Đường 20 Quyết Thắng là con đường máu lửa, là tuyến ác liệt nhất trong hệ thống đường Trường Sơn. Anh là Trung đội trưởng, đơn vị cơ động liên tục từ cua chữ A, dốc Ba Thang đến ngầm Ta Lê. Giữa năm 1966, chị Thu được điều lên làm thống kê ở Cục Tham mưu vận chuyển, rồi lại tham gia Đội văn nghệ xung kích của Đoàn 559. Bộ tư lệnh lúc bấy giờ vào sâu hơn, đóng ở căn cứ Văng Mu, anh thì ở cây số 29,  nên hai người ít khi được gặp nhau. Có giai đoạn cách nhau chưa đầy trăm ki-lô-mét mà gửi thư mất cả tháng mới nhận được. Đầu năm 1968, anh đã là Chính trị viên đại đội, nghe tin có “văn công” của Đoàn 559 về biểu diễn ở Binh trạm, anh Thú cùng một số anh em trong đơn vị đi xem. Đi bộ hơn 10 cây số đường rừng, đến nơi thì chương trình biểu diễn đã được một nửa. Trong ánh đèn được ngụy trang kín đáo, anh phát hiện ra cô gái đang đơn ca bài “Bạch Long Vĩ đảo quê hương” chính là Xuân Thu. Kìm nén xúc động đến sau buổi biểu diễn, hai người gặp nhau dưới gốc cây săng lẻ. Chị Thu cầm tay anh nhỏ nhẹ đùa: "May mà đến muộn… chứ đến sớm để em nhìn thấy anh thì khó mà hát được !".

Giữa năm 1969, đơn vị anh lại tiếp tục mở đường vào phía Nam và sang Tây Trường Sơn. Máy bay Mỹ đánh phá ngày càng ác liệt! Lê Công Thú bị thương nặng phải ra điều trị tại bệnh viện dã chiến của Đoàn 559 ở Ba Khe. Hơn một năm chưa gặp người yêu, không thư từ liên lạc, lại bị thương nằm một chỗ nên anh rất buồn. Đang nghĩ vẩn vơ thì quân bưu mang đến niềm vui: Một lá thư dài và một tấm vải do Xuân Thu gửi. Trong thư, chị viết: “Em đang ở trên đất bạn Lào, lúc này không biết gửi gì để động viên anh vượt qua cơn đau. Chỉ có món quà nhỏ và em gửi trọn trái tim chung thủy của người con gái quê hương, chúc anh mau khỏe để trở lại đơn vị”. Anh áp lá thư của người yêu vào ngực, xem đó là liều thuốc quý để xin ra viện trước một tuần - ở Đường 20, mọi người đang chờ anh.

Tại nhà riêng ở đường Nguyễn Đức Cảnh, TP Đồng Hới, ông Thú tâm sự: "Có cô Thu đây tôi vẫn nói thật với chú, hồi ở Trường Sơn tuy đạn bom ác liệt thế nhưng cô vừa xinh vừa hát hay, nhiều anh để mắt đến lắm. Tôi thì vừa ở xa, lại bị thương, chỉ sợ cô ấy “phăng teo”. Khi đọc được dòng  “Em gửi trọn trái tim” thì tôi mừng quá, viết trả lời một lá thư cũng dài không kém và kèm mấy câu thơ: “Quê hương đẹp mối tình đầu /  Cùng ngày nhập ngũ chung câu quân hành / Gian lao suốt cuộc chiến tranh / Tuổi xuân gửi trọn rừng xanh chiến trường / Khổ nhiều nên lắm tình thương / Càng thêm yêu quý con đường mình đi”.

“Thông điệp tình yêu” ấy đi nhiều tháng mới tới tay Xuân Thu, đến khi chị viết thư trả lời thì anh đã được cấp trên cử đi học lớp đào tạo cán bộ trẻ do Bộ Giao thông-Vận tải tổ chức năm 1970. Như trời xe duyên, trong đợt nghỉ tranh thủ, anh gặp chị cũng đang về phép ở quê nhà. Đám cưới của hai người lính Trường Sơn diễn ra trong hoàn cảnh chiến tranh, vào năm 1972 ở xã Vạn Ninh. Bộ tư lệnh Đoàn 559 cử người về dự và tặng đôi uyên ương 2 tút thuốc lá Điện Biên, một xấp vải lụa...

Với quân hàm Trung úy, bà Thu phục viên năm 1980, tiếp tục công tác ở Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Bình Trị Thiên cũ và nghỉ hưu năm 1995. Ông Thú trước lúc nghỉ hưu công tác ở Ban Dân vận Tỉnh ủy Quảng Bình. Hiện nay, ông là ủy viên BCH Hội cựu TNXP tỉnh, Trưởng ban liên lạc C7 TNXP. Hai người con của ông bà đều tốt nghiệp đại học và có việc làm ổn định. Niềm vui của ông bà là tham gia công tác ở khu phố và dành nhiều thời gian cho việc đi thăm đồng đội cũ. Thỉnh thoảng ông bà lại lên Đường 20, nơi ấy, hai người đã có tuổi xuân đẹp nhất cùng với con đường lịch sử.

Bài và ảnh: XUÂN VUI